🪼 Bài Đọc Lễ Cầu Cho Các Linh Hồn
Giáo Hội giành riêng tháng 11 cầu cho các Linh Hồn, đồng thời cũng dạy chúng ta một bài học quí giá : - Cuộc sống chúng ta hiện nay là để chuẩn bị cho sự chết ngày mai. - Cái chết là ngưỡng cửa để ta bước vào đời sống vinh hiển. - Nhớ đến người chết chính là tình
“Các ngươi cứ bền đỗ, mới cứu vãn được linh hồn các ngươi” (Lc 21,19). Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG. Chúa Giêsu vừa loan báo cho các tông đồ những biến loạn mà nhân loại sẽ gặp khi Ngài hiển hiện vào ngày thế mạt.
Linh mục cũng được khuyến khích nhắc ý lễ hôm nay cầu cho ai để người xin lễ được an tâm là lễ mình xin đã được làm. Nhưng không có luật buộc phải rao tên như vậy, mà chỉ có luật buộc phải làm lễ theo ý chỉ (mass intentions) để được hưởng bổng lễ (Mass stipend
Các Bài Hát Tang Lễ, Các Bài Hát Cầu hồn . CẦU XIN CHÚA THÁNH THẦN. 1. Cầu xin Chúa Thánh Thần Người thương thăm viếng hồn con Ban xuống cho con hồng ân chan chứa Trau dồi cho đáng ngôi thánh đường. ĐK: Nguyện xin Chúa Ngôi Ba, đoái nghe lời con thiết tha.
Trước khi kết thúc Thánh lễ, cộng đoàn cùng đọc kinh Lạy Cha, kinh Tin Kính cầu cho các đẳng linh hồn, trong lúc quý cha rảy nước phép trên các phần mộ. Thánh lễ kết thúc, mọi người quây quần bên từng ngôi mộ của người thân để tiếp tục cầu nguyện cho những người
THÁNH CA CẦU CHO CÁC LINH HỒN | Những Bài Thánh Ca Lễ Cầu Cho Các Linh Hồn Hay Nhất P2: https://youtu.be/tsSMLTqwKHA-----01. Sự S
Chúa nói: “Tất cả những người Chúa Cha ban cho tôi đều sẽ đến với tôi”.Chúng ta cùng cầu xin Chúa cho mọi tín hữu đã qua đời, trong đó có thân nhân, ân nhân và bạn hữu của chúng ta, được Chúa thương thanh tẩy mọi lỗi lầm và đón nhận vào nước trời hưởng vinh
Top 4: BÀI HÁT CẦU HỒN - đọc kinh online bằng smartphone; Top 5: Album Những Bài Hát Thánh Ca Lễ Cầu Hồn hay nhất-Nhiều ca sỹ; Top 6: TUYỂN TẬP NHẠC CẦU NGUYỆN CHO CÁC LINH HỒN - NhacCuaTui; Top 7: Những Bài Hát Thánh Ca Hay Nhất Cho Lễ Cầu Hồn - THANH CA MỚI; Top 8: Tháng 11 Kính nhớ
Cầu cho các tín hữu đã qua đời . Ga 6,37-40. BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ CẦU CHO CÁC ĐẲNG LINH HỒN. Lễ I. Nghe MP3. Dẫn nhập Thánh lễ . Tín điều các thánh thông công hôm nay giúp chúng ta xác tín vào sự hiệp thông trong Hội Thánh.
XEYwzP. “CON MUỐN RẰNG CON Ở ĐÂU, CHÚNG CŨNG Ở ĐẤY VỚI CON”. Ghi chú Đức Giáo hoàng Bênêđictô XV cho phép mọi linh mục được dâng 3 thánh lễ trong ngày này * Một cho các linh hồn mồ côi * Một theo ý chỉ của Đức Giáo Hoàng * Một theo ý chỉ của chính linh mục. Vì thế ta có Lễ Nhất, Lễ Nhì, Lễ Ba với các Bài đọc như sau Lễ nhất Rm 6,3-9; Ga 6,51-59 Lễ nhì Kn 3,1-9; Lc 23,33 Lễ ba Rm 5,4-11; Ga 17,24-26 _______________________________________________ BÀI ĐỌC I Kn 3, 1-9 “Chúa chấp nhận các ngài như của lễ toàn thiêu”. Trích sách Khôn Ngoan. Linh hồn những người công chính ở trong tay Chúa, và đau khổ sự chết không làm gì được các ngài. Đối với con mắt người không hiểu biết, thì hình như các ngài đã chết và việc các ngài từ biệt chúng ta, là như đi vào cõi tiêu diệt. Nhưng thật ra các ngài sống trong bình an. Và trước mặt người đời, dầu các ngài đã chịu khổ hình, lòng cậy trông của các ngài cũng không chết. Sau một giây lát chịu khổ nhục, các ngài sẽ được vinh dự lớn lao vì Chúa đã thử thách các ngài như thử vàng trong lửa, và chấp nhận các ngài như của lễ toàn thiêu. Khi đến giờ Chúa ghé mắt nhìn các ngài, các người công chính sẽ sáng chói và chiếu tỏ ra như ánh lửa chiếu qua bụi lau. Các ngài sẽ xét xử các dân tộc, sẽ thống trị các quốc gia, và Thiên Chúa sẽ ngự trị trong các ngài muôn đời. Các ngài đã tin tưởng ở Chúa, thì sẽ hiểu biết chân lý, và trung thành với Chúa trong tình yêu, vì ơn Chúa và bình an sẽ dành cho những người Chúa chọn. Đó là lời Chúa. ĐÁP CA Tv 22, 1-3a. 3b-4. 5. 6 A+B=Chúa chăn nuôi tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi c. 5. A. Chúa chăn nuôi tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi; trên đồng cỏ xanh rì, Người thả tôi nằm nghỉ. Tới nguồn nước, chỗ nghỉ ngơi, Người hướng dẫn tôi; tâm hồn tôi, Người lo bồi dưỡng. B. Người dẫn tôi qua những con đường đoan chính, sở dĩ vì uy danh Người. – Dù bước đi trong thung lũng tối, con không lo mắc nạn, vì Chúa ở cùng con. Cây roi và cái gậy của Ngài, đó là điều an ủi lòng con. A. Chúa dọn ra cho con mâm cỗ, ngay trước mặt những kẻ đối phương đầu con thì Chúa xức dầu thơm, chén rượu con đầy tràn chan chứa. B. Lòng nhân từ và ân sủng Chúa theo tôi, hết mọi ngày trong đời sống; và trong nhà Chúa, tôi sẽ định cư cho tới thời gian rất ư lâu dài. BÀI ĐỌC II Rm 5, 5-11 “Chúng ta đã nên công chính trong Máu của Người, và nhờ Người chúng ta được cứu khỏi cơn thịnh nộ”. Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Rôma. Anh em thân mến, tình yêu của Thiên Chúa tuôn đổ trong tâm hồn chúng ta nhờ Thánh Thần đã ban cho chúng ta. Chúa Kitô theo kỳ hẹn mà chịu chết vì chúng ta là kẻ tội lỗi. Ít có ai chết thay cho người công chính, hoạ chăng mới có người dám chết vì kẻ lành. Nhưng Thiên Chúa chứng tỏ tình yêu của Người đối với chúng ta, nghĩa là trong lúc chúng ta còn là tội nhân, thì theo kỳ hẹn, Chúa Kitô đã chết vì chúng ta. Vậy phương chi bây giờ, chúng ta đã nên công chính trong máu của Người, và nhờ Người chúng ta sẽ được cứu khỏi cơn thịnh nộ. Bởi chưng nếu khi chúng ta còn là thù nghịch, mà chúng ta đã được giao hoà cùng Thiên Chúa nhờ cái chết của Con Ngài, thì huống chi khi đã được giao hoà, ắt chúng ta sẽ được cứu độ trong sự sống của chính Chúa Kitô. Và không những thế, chúng ta còn được vinh hiển trong Thiên Chúa nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, nhờ Người mà bây giờ chúng ta được lãnh ơn giao hoà. Đó là lời Chúa. Hay đọc bài này BÀI ĐỌC I Rm 6, 3-9 “Chúng ta phải sống đời sống mới”. Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Rôma. Anh em thân mến, tất cả chúng ta đã chịu phép rửa trong Đức Giêsu Kitô, tức là đã chịu phép rửa trong sự chết của Người. Và chúng ta đã cùng chịu mai táng với Người, bởi được thanh tẩy trong sự chết của Người, để như Đức Kitô nhờ vinh hiển của Chúa Cha mà sống lại từ cõi chết thế nào, thì cả chúng ta cũng phải sống đời sống mới như thế. Vì nếu chúng ta được liên kết với Người trong cùng một cái chết, giống như cái chết của Người, thì chúng ta cũng được hợp nhất với Người, trong sự sống lại giống như vậy. Nên biết điều này con người cũ của chúng ta đã cùng chịu đóng đinh khổ giá, để xác thịt tội lỗi bị huỷ đi, hầu cho chúng ta không còn làm nô lệ tội lỗi nữa, vì con người đã chết, tức là được giải thoát khỏi tội lỗi. Mà nếu chúng ta đã chết với Đức Kitô, chúng ta tin rằng chúng ta cũng sẽ cùng sống với Người, vì biết rằng Đức Kitô một khi từ cõi chết sống lại, Người không chết nữa, sự chết không còn làm chủ được Người nữa. Đó là lời Chúa. ALLELUIA Ga 11, 25-26 -Chúa phán “Hỡi những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến, hãy lãnh lấy phần gia nghiệp là Nước Trời đã chuẩn bị cho các ngươi từ khi tạo dựng vũ trụ”. – Alleluia. PHÚC ÂM Ga 637-40 Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan. Khi ấy, Chúa Giêsu nói với đám đông rằng Tất cả những người Chúa Cha ban cho tôi đều sẽ đến với tôi, và ai đến với tôi, tôi sẽ không loại ra ngoài, vì tôi tự trời mà xuống, không phải để làm theo ý tôi, nhưng để làm theo ý Đấng đã sai tôi. Mà ý của Đấng đã sai tôi là tất cả những kẻ Người đã ban cho tôi, tôi sẽ không để mất một ai, nhưng sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết. Thật vậy, ý của Cha tôi là tất cả những ai thấy người Con và tin vào người Con, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết.” Đó là lời Chúa. Hay bài này PHÚC ÂM Ga 17, 24-26 “Con muốn rằng Con ở đâu, chúng cũng ở đấy với Con”. Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan. Khi ấy, Chúa Giêsu ngước mắt lên trời cầu nguyện rằng “Lạy Cha, những kẻ Cha ban cho Con thì Con muốn rằng Con ở đâu chúng cũng ở đấy với Con, để chúng chiêm ngưỡng vinh quang mà Cha đã ban cho Con, vì Cha đã yêu mến Con trước khi tạo thành thế gian. Lạy Cha công chính, thế gian đã không biết Cha, nhưng Con biết Cha, và những người này cũng biết rằng Cha đã sai Con. Con đã tỏ cho chúng biết danh Cha, và Con sẽ còn tỏ cho chúng nữa, để tình Cha yêu Con ở trong chúng, và Con cũng ở trong chúng nữa”. Đó là lời Chúa. __________________________________________ I/. NGUỒN GỐC LỄ CẦU CHO CÁC LINH HỒN Việc cầu nguyện cho những người đã qua đời có nguồn gốc từ Cựu Ước “Ông Giuđa quyên được khoảng 2000 quan tiền, và gửi về Giêrusalem để xin dâng lễ đền tội; ông làm cử chỉ rất tốt đẹp và cao quý này vì cho rằng người chết sẽ sống lại. Thực thế, nếu ông không hy vọng rằng những chiến binh đã ngã xuống sẽ sống lại, thì cầu nguyện cho người chết quả là việc dư thừa và ngu xuẩn. Nhưng vì ông nghĩ đến phần thưởng rất tốt đẹp dành cho những người đã an nghỉ trong tinh thần đạo đức, thì đây quả là một ý nghĩ đạo đức và thánh thiện. Đó là lý do khiến ông đến dâng lễ tế đền tạ cho những người đã chết, để họ được giải thoát khỏi tội lỗi” 2 Mcb 12,43-46. Giáo hội từ những thế kỷ đầu cũng đã cầu nguyện cho các tín hữu đã qua đời. Thánh Augustinô 354-430 đã nói “Nếu chúng ta không lưu tâm gì đến người chết, thì chúng ta sẽ không có thói quen cầu nguyện cho họ”. Sau đó, Thánh Odilo 962-1048, Viện phụ Đan viện Cluny đan viện này thời đó nằm trong phần đất của đế quốc Germany đã có sáng kiến tổ chức lễ Cầu hồn vào ngày 2-11 và trước hết cử hành trong Đan viện Cluny của ngài vào năm 998 có sách nói 1030. Về sau lễ Cầu hồn đã được truyền sang nước Pháp; và tới giữa thế kỷ X, Đức Giáo hoàng Gioan XIV đã lập lễ Cầu hồn trong Giáo hội Rôma. Nếu Lễ này trùng vào ngày Chúa Nhật, ngày lễ sẽ được dời lại đến ngày 3-11. Theo Văn Nguyễn – Nguồn __________________________________________ II/. VÀI SUY TƯ VỀ LỄ CẦU CHO CÁC TÍN HỮU ĐÃ QUA ĐỜI Loài hoa FORGET ME NOT – XIN ĐỪNG QUÊN TÔI Cây “Forget Me Not” còn gọi là cây hoa Thủy Chung, hoa Đôm Đốm Tím, hoa Lưu Ly, hoa Bâng Khuâng hay hoa Lỗ Bì. Forget me not có hoa màu xanh, trắng, tím, hoặc vàng, nhưng phổ biến là màu xanh hay tím violet đặc trưng ở Đà Lạt. Forget me not thường được cắm chung hoặc làm nền cho các loại hoa khác, đem lại cảm giác trữ tình và êm dịu. Hoa nở tỏa mùi hương ấm áp như mùi trái chín và bánh ngọt hết sức gần gũi thân quen. Không đâu như Đà Lạt, mọc thật nhiều một loài cây thân thảo, thật bình dị nhỏ nhoi. Hoa của nó màu tím, màu trắng hoặc vàng. Hoa nở tỏa mùi hương ấm áp như mùi trái chín và bánh ngọt hết sức gần gũi thân quen. Đấy là hoa Lưu ly, tiếng Anh gọi là forget me not có nghĩa là xin đừng quên tôi. Tiếng Anh gọi là FORGET ME NOT có nghĩa là XIN ĐỪNG QUÊN TÔI. Biết tên rồi thì không một ai là không chú ý đến hoa. Hoa đã trở thành nguồn thơ, nguồn gợi cảm của bao người về tình bạn, tình yêu nam nữ, tình cảm của anh em. Không ít người khi lặng nhìn những khóm hoa mọc trên phiến thạch bên các bờ suối lại không thấy lòng mình bồi hồi xao xuyến. Cho dù gọi hoa theo tên nào thì đây cũng là một loại hoa luôn gợi nhớ một niềm thương cảm mênh mông, một kỉ niệm sâu xa thầm lặng không quên được. Một truyền thuyết của người Đức đã giải thích nguồn gốc tên của loài hoa màu xanh tím nhỏ bé xinh đẹp này, cũng như ý nghĩa của nó trong ngôn ngữ các loài hoa Ngày nọ, có một hiệp sĩ trẻ và người yêu đang đi dạo dọc theo bờ sông Danube . Cô gái trông thấy mấy cánh hoa đẹp mọc ở ven bờ, nơi sát mí nước, rất thích, cô bảo người yêu hái cho mình. Nhưng than ôi, trong lúc cố vươn tay với lấy các cành hoa, chàng hiệp sĩ trượt ngã xuống dòng sông đang chảy xiết. Bị vướng víu áo giáp nặng nề, chàng đã không thể vượt qua được bờ sông trơn trượt dù đã cố gắng hết sức. Cảm thấy mình đang nhanh chóng chìm xuống, anh ném hoa lên bờ cho người yêu và bằng tất cả hơi thở tàn của mình trước khi chìm mãi, anh gọi nàng một lời như trăn trối “ĐỪNG QUÊN NHAU NHÉ !” rồi mất hút trong dòng nước xiết… Người yêu đau khổ đã không bao giờ quên anh, cô cài những cánh hoa ấy trên tóc cho đến khi chết. Ngày nay hoa “Forget me not” THƯỜNG ĐƯỢC TRỒNG TRONG CÁC NGHĨA TRANG, như một lời nhắc nhở cho khách hành hương đi viếng nghĩa trang ĐỪNG BAO GIỜ QUÊN CÁC LINH HỒN, đừng bao giờ quên những người đang nằm trong những nấm mộ kia, tiếng van xin của họ rất tha thiết và khẩn khoản. Xin hãy dừng bước, xin đừng đi qua mà không cắm cho họ một cây nhang để ấm lòng, đọc cho họ một kinh để họ được mãn nguyện. Họ đang rất cần lời kinh tiếng hát của mọi người để cầu cho họ, vì bây giờ họ chằng còn làm gì được nữa mà chỉ mong chờ vào người còn sống. sưu tầm Ngày hôm qua 01/11, chúng ta sống trong niềm vui với các thánh nam nữ trong GIÁO HỘI KHẢI HOÀN. Sang ngày hôm nay 02/11/2020, Giáo hội muốn con cái mình nhớ đến các linh hồn trong GIÁO HỘI THANH LUYỆN, đang chịu những đau khổ trong Luyện ngục. để thanh luyện họ được tinh tuyền hơn. Hôm nay thứ Hai, 02/11/2020, Giáo hội dành riêng để cầu nguyện cho các tín hữu đã qua đời. Trong đó có ông bà, cha mẹ, tiên nhân của chúng ta. Thánh lễ hôm nay cũng gắn liền mỗi người với bao kỷ niệm khó quên và bao nỗi buồn khó tả. Nó gắn liền với nghĩa trang, với các ngôi mộ thẳng tắp, lạnh lẽo và cũng gắn liền với Nhà hài cốt với những hũ cốt xếp ngay ngắn nằm trên kệ. Lòng ta chợt chùng xuống, ngậm ngùi cho định mệnh, số phận con người. Cả một cuộc đời cố gắng, phấn đấu, nỗ lực, tung hoành ngang dọc mà bây giờ chỉ còn lại nắm tro tàn này sao! Thật chua xót! Họ đang nằm ở đây chờ người còn sống đi qua cắm cho họ vài nén nhang cho bớt lạnh lẽo. Họ đang cần những lời cầu nguyện, lời kinh tiếng hát để cho vơi đi nỗi đau khổ mà họ đang chịu trong luyên ngục. Ngày cầu cho các linh hồn, cũng là dịp để giáo dục Kitô hữu chúng ta, thuộc GIÁO HỘI LỮ HÀNH, giáo dục đức tin và những giá trị con người. Đó là dịp để ta suy nghĩ và có những quyết định sống trưởng thành hơn. Khi tưởng nhớ đến người quá cố, tâm tình buồn thương nhớ tiếc, khơi dậy nơi những người còn đang sống trên trần gian. Tâm tình này rất đạo đức và cũng rất tình người. Tâm tình này dẫn ta đến suy nghĩ về những khác biệt trong đời sống con người. Mỗi người đều có ngày mở mắt chào đời từ lòng mẹ đi ra. Và ai cũng có ngày sau cùng, được bọc trong cỗ áo quan chôn vùi xuống lòng đất hoặc được hỏa táng Những người ra đi khỏi cuộc sống trần gian về thế giới bên kia và những người còn đang sống, TRƯỚC SAU VẪN THUỘC VỀ NHAU. Tất cả cùng chung sống với nhau. Chúng ta và họ cùng chia sẻ cuộc sống niềm tin, cuộc sống tình người. Họ ra đi, nhưng vẫn hiện diện trong trái tim chúng ta. Họ vẫn sống động trong tâm tình biết ơn của ta, và trong những kỷ niệm của ta. Người ta định nghĩa THẾ NÀO LÀ MỘT NGƯỜI ĐÃ CHẾT? Người chết không hẳn là người nằm bất động im lìm, tim ngừng đập. MÀ NGƯỜI CHẾT CHÍNH LÀ NGƯỜI KHÔNG CÒN AI NHỚ ĐẾN HỌ NỮA. Như vậy, ông bà, cha mẹ của ta mặc dù đã qua đời nhưng họ vẫn còn sống, họ chưa chết vì ta đang nhớ đến họ trong ngày hôm nay. Trong Phúc âm Marcô, Chúa đã trả lời cho nhóm người Sađóc như sau “Người phán Ta là Thiên Chúa của Áp-ra-ham, Thiên Chúa của I-xa-ác, và Thiên Chúa của Gia-cóp. Người không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là của kẻ sống. ” Mc 12, 26 – 27. Thiên Chúa luôn là Thiên Chúa của kẻ sống, như vậy tất cả những người đã tạm biệt chúng ta sang thế giới bên kia, họ vẫn luôn sống. Chỉ tại chúng ta thuộc về thế giới này nên ta không nhìn thấy họ. Hai thế giới hoàn toàn khác nhau, khác nhau cả về không gian và thời gian, ta không thấy họ nhưng họ vẫn nhìn thấy chúng ta nhưng không thể nói cho ta biết họ đang cần gì và ao ước gì. Họ chỉ chết thật sự khi không còn ai nhớ đến họ nữa. Nếu ta vẫn nhớ đến họ họ vẫn đang sống trong tâm trí ta, trong những kỷ niệm của ta. Vì thế họ vẫn đang nói với mỗi người chúng ta, mà ta không nghe thấy “FORGET ME NOT – XIN ĐỪNG QUÊN TÔI”. Trong ngày cầu nguyện cho các tín hữu đã qua đời, chúng ta 1/. TƯỞNG NHỚ ĐẾN TỔ TIÊN, ÔNG BÀ, CHA MẸ ĐÃ RA ĐI VỀ VỚI CHÚA. Họ là những người đã sinh thành, nuôi dưỡng, dạy dỗ chúng ta nên người. Họ là người đã không chỉ nuôi dưỡng chúng ta bằng sữa, bằng cơm ăn áo mặc, lo lắng cho sức khỏe. Nhưng họ đã hy sinh suốt cuộc đời trong nhiệm vụ là cha mẹ được Thiên Chúa giao phó, nuôi dạy uốn nắn đời sống đức tin, tinh thần đạo đức của ta. 2/. TƯỞNG NHỚ ĐẾN NHỮNG NGƯỜI THÂN YÊU RUỘT THỊT TRONG GIA ĐÌNH ĐÃ AN GIẤC NGÀN THU họ là chồng hay vợ; là con cái, cháu chắt, anh chị em, cô cậu chú bác. Với họ, ta đã cùng nhau trải qua những chặng đường trong cuộc sống vui buồn, cay đắng ngọt bùi, đã cùng nhau sống những giờ phút thành công cũng như thất bại, hy vọng có, lo âu sợ sệt cũng có. Một phần đời sống của ta từ nơi họ và một phần đời sống của họ cũng từ nơi ta. Tôi biết có ngày tôi sẽ chết. Mặc dầu tôi không biết sẽ chết ngày giờ nào, nơi nào, cách nào. TÔI SẼ CHẾT. Đó là chân lý hết sức rõ ràng và chắc chắn. Chân lý này, không ai dạy tôi. Nó nằm ngay trong con người của tôi. Cái chết sẽ là một biến cố đụng tới mọi người. Vấn đề này được coi là quan trọng. Bởi nó đặt ra câu hỏi Đâu là ý nghĩa cuộc sống? Cuộc đời đi về đâu? Bên kia sự chết có gì không? Trong niềm tin Kitô giáo, ta tin rằng CON NGƯỜI LÀ MỘT HỢP THỂ XÁC – HỒN. A/. LINH HỒN Khi chết đi, là lúc Linh hồn ra khỏi thân xác, nó sẽ ra trước Toà Chúa phán xét để được ở một trong ba nơi Thiên đàng – Luyện ngục – Hoả ngục. Tuỳ theo sự phán xét của Chúa. + THIÊN ĐÀNG là nơi dành cho những người khi còn sống đã hoàn toàn tin tưởng vào Chúa và sống theo những đòi hỏi của Tin mừng. Đó là nơi hạnh phúc bất diệt và vĩnh cửu, nơi mà mọi người luôn hướng về, đó mới là quê hương đích thực của ta mà các Thánh được mừng kính trong ngày 01/11 đang hiện diện. + HOẢ NGỤC Là nơi đau khổ vĩnh viễn, là nơi chỉ có khóc lóc, nghiến răng. Họ luôn oán trách Thiên Chúa và cay cú chính mình. Đó là nơi dành cho những ai đã từ chối Thiên Chúa một cách quyết liệt và tận cùng khi còn sống. Những kẻ đã từ bỏ mọi hy vọng, từ bỏ mọi nỗi lực để sám hối và đứng lên. + LUYỆN NGỤC Là nơi dành cho những ai đã tin tưởng vào Chúa, sống theo những đòi hỏi của Tin mừng. Nhưng vì thân xác mỏng dòn, yếu đuối, họ không thắng được các cơn cám dỗ và đã chiều theo nó, mặc dù họ không từ chối Chúa một cách quyết liệt và tận cùng. Vì thế họ cần có một thời gian thanh luyện để trở nên tinh tuyền hầu được bước vào thiên đàng. Luyên ngục chính là nơi thanh luyện. Linh hồn thì như vậy, còn thân xác thì sao? B/. THÂN XÁC Sau khi chết linh hồn phải ra trước Toà Chúa phán xét, còn thân xác sẽ bị chôn vùi trong lòng đất để chịu cảnh mục nát, hoặc bị thiêu đốt để trở thành nắm tro tàn. Đến ngày tận thế, thân xác sẽ được phục sinh, sống lại, dù đang ở bất kỳ dạng nào, dù có mục nát hay bị đốt thành tro bụi. Thân xác sẽ hợp với linh hồn để trở thành con người đầy đủ và sẽ chịu CUỘC PHÁN XÉT THỨ HAI và cũng là cuối cùng, quyết định cho số phận đời đời. Thân xác sẽ được phục sinh, đó là niềm tin chắc chắn, vì mỗi công hay tội, vinh hay nhục ta thực hiện ở đời này đều có sự tham gia của cả xác lẫn hồn. Như vậy tại sao chỉ có hồn chịu phán xét! Còn thân xác không có trách nhiệm sao ! Cả thân xác cũng phải chịu cuộc phán xét. Vì thế xác phải được phục sinh. Trở lại câu hỏi Đâu là ý nghĩa cuộc sống? Cuộc đời đi về đâu? Bên kia sự chết có gì không? Câu trả lời theo lý thuyết có thể tìm thấy trong nhiều sách vở, nhất là sách đạo. Nhưng câu trả lời theo cảm nghiệm sẽ thường chỉ hiện lên một cách sống động, khi ta ở bên cạnh người sắp chết, hoặc chính ta đã có lần thập tử nhất sinh. Vì thế, nói cho đúng, vấn đề đặt ra cho ta về cái chết sẽ KHÔNG LÀ SỢ CHẾT, mà là SỢ CHẾT DỮ, chết mà sau đó không được lên thiên đàng, mà phải xuống hoả ngục. Trong Bài Tin mừng, Thánh sử Gioan đã nói lên ước vọng của Chúa Giêsu dâng lên Chúa Cha “LẠY CHA, NHỮNG KẺ CHA BAN CHO CON THÌ CON MUỐN RẰNG CON Ở ĐÂU CHÚNG CŨNG Ở ĐẤY VỚI CON, ĐỂ CHÚNG CHIÊM NGƯỠNG VINH QUANG MÀ CHA ĐÃ BAN CHO CON”. Chúa Cha đã ban cho Chúa Giêsu tất cả mọi người, kể cả những người đã mất và những người hiện còn đang sống trên thế gian này. Như vậy tất cả mọi người đều thuộc về Chúa và là anh em với nhau, anh em con cùng Cha trên trời. Niềm mong ước của Chúa Giêsu là mong muốn tất cả mọi người được ở cùng với Ngài, để Chúa ở đâu thì ta cũng được ở đó. Lời Chúa Giêsu hôm nay đem lại cho các Kitô hữu một niềm hy vọng vô biên, ta sẽ được xum họp cùng với ông bà, tổ tiên , anh em với ta trên Quê trời. Chính niềm hy vọng này đã làm cho cuộc sống của các Kitô hữu thật ý nghĩa, vì tất cả mọi nỗ lực, cố gắng. mọi việc lành phúc đức ở đời này sẽ không mất đi, những là những lời cầu cho các tín hữu đã qua đời. Tín điều CÁC THÁNH CÙNG THÔNG CÔNG là như vậy. Đólà một vài suy tư của chúng ta trong Ngày Lễ cầu cho các Tín hữu đã qua đời hôm nay. Amen. _____________________________________________ III/. BÀI CHIA SẺ Ga 6,37-40 “KHI ẤY, CHÚA GIÊSU NÓI VỚI ĐÁM ĐÔNG RẰNG TẤT CẢ NHỮNG NGƯỜI CHÚA CHA BAN CHO TÔI ĐỀU SẼ ĐẾN VỚI TÔI, VÀ AI ĐẾN VỚI TÔI, TÔI SẼ KHÔNG LOẠI RA NGOÀI, VÌ TÔI TỰ TRỜI MÀ XUỐNG, KHÔNG PHẢI ĐỂ LÀM THEO Ý TÔI, NHƯNG ĐỂ LÀM THEO Ý ĐẤNG ĐÃ SAI TÔI.” Chúa Giêsu đang đứng trước cử tọa là người Do Thái, Ngài gọi Thiên Chúa là Cha. Chúa Cha đó là danh xưng mà họ chưa bao giờ nghe nói đến, phá tan sự xa cách giữa con người với Thiên Chúa. Thiên Chúa không còn là Đấng xa lạ, nghiêm khắc nữa, nhưng là Người Cha đầy lòng nhân ái, luôn yêu thương con cái mình. Chúa Giêsu chuẩn bị nói một điều quan trọng, Ngài sắp mạc khải cho con người biết về tình yêu vô bờ bến của Thiên Chúa. TẤT CẢ NHỮNG NGƯỜI CHÚA CHA BAN CHO TÔI ĐỀU SẼ ĐẾN VỚI TÔI”. Chúa Cha ban cho Chúa Giêsu gồm những ai? thưa Đó là tất cả mọi người, trong đó bao gồm những người đã mất, những người đang sống và những người sẽ sinh ra và hiện diện sau này. Nói chung là tất cả mọi người. Những người đã mất hiện nay đang ở một trong ba nơi, đó là Thiên đàng – Luyện ngục – Hỏa ngục. Nhưng vấn đề người ta có đến với Chúa không, lại là chuyện khác, vì con người có tự do, nên họ có thể sống theo ý nghĩ của mình, theo những gì mình muốn. Còn về phía Thiên Chúa, Ngài luôn kêu gọi tất cả mọi người. Ta còn nhớ, có người đã đến hỏi Chúa Giêsu Phải chăng chỉ có số ít người được cứu độ? Lc 13, 23. Hôm nay Ngài khẳng định không phải, Thiên Chúa muốn cứu độ hết mọi người. “AI ĐẾN VỚI TÔI, TÔI SẼ KHÔNG LOẠI RA NGOÀI.” Chúa Giêsu khẳng định cho con người biết, bất kỳ ai đến với Ngài, họ sẽ không bị loại ra ngoài. Ngày hôm qua, ta đã mừng Lễ kính các Thánh nam nữ, đó là những người đã đến với Chúa Giêsu và bây giờ họ đang hưởng hạnh phúc trong Nước Trời, đó là minh chứng hùng hồn cho lời Ngài nói “ai đến với tôi, tôi sẽ không loại ra ngoài”. Ngày hôm nay, ta cũng hướng đến các Đẳng linh hồn, họ cũng đến với Chúa Giêsu nên họ cũng không bị loại ra ngoài, nhưng phải mất một thời gian để tinh luyện mình cho xứng đáng vào Nước Thiên Chúa. Sự thánh thiện của Thiên Chúa và tội lỗi là hai điều đối nghịch nhau, như lửa với nước, như ánh sáng với bóng tối. Do đó, tội lỗi làm cho chúng ta phải xa lìa Thiên Chúa, khiến chúng ta quay lưng chống lại Ngài và đi ngược lại với bản tính thánh thiện tuyệt vời của Ngài. Thiên Chúa thánh thiện không thể nào chấp nhận một chút bợn nhơ xấu xa nào trong vương quốc của Ngài. Đối với các linh hồn đáng thương còn mang dấu ấn của tội lỗi, thì LUYỆN NGỤC chính là nơi ẩn náu đầy yêu thương, là tiền đường của thiên đàng. Các ngài vui mừng trong đau khổ. Và nỗi đau khổ nặng nề nhất không phải là cực hình hỏa ngục, mà là khát vọng được diện kiến thánh nhan Chúa, mà hiện nay chưa được trở thành sự thật, mà vẫn còn bị trói buộc trong sợ mòn mỏi trông chờ và mong đợi. Với ý thức về tội lỗi của mình, các ngài sẽ không rời xa luyện ngục, cho tới khi được tẩy sạch mọi vết nhơ tội lỗi. Còn mang lấy một chút dấu vết của tội lỗi trong tâm hồn mình cũng là một đớn đau cho các ngài, khi cảm thấy mình bất xứng. Còn những người ở trong hỏa ngục? Họ đang ở nơi đau khổ vĩnh viễn, họ đã không đến với Chúa Giêsu, nên họ ở ngoài Nước Thiên Chúa. Hiểu theo một nghĩa nào đó, hình phạt trong hỏa ngục do chính họ chọn, chứ không phải Thiên Chúa muốn, vì họ không chịu đến với Chúa Giêsu thì sẽ không ai có thể cứu được họ. “VÌ TÔI TỰ TRỜI MÀ XUỐNG, KHÔNG PHẢI ĐỂ LÀM THEO Ý TÔI, NHƯNG ĐỂ LÀM THEO Ý ĐẤNG ĐÃ SAI TÔI.” Khi Chúa Giêsu nói, ai đến với tôi sẽ không bị loại ra ngoài, lý do Ngài đưa ra, đó là Chúa Giêsu luôn làm theo ý Đấng đã sai Ngài, Chúa Giêsu không theo ý riêng mình. Mà ý của Đấng đã sai Ngài, đó là Chúa Cha. Chúa Cha luôn mong muốn mọi người được cứu độ. “MÀ Ý CỦA ĐẤNG ĐÃ SAI TÔI LÀ TẤT CẢ NHỮNG KẺ NGƯỜI ĐÃ BAN CHO TÔI, TÔI SẼ KHÔNG ĐỂ MẤT MỘT AI, NHƯNG SẼ CHO HỌ SỐNG LẠI TRONG NGÀY SAU HẾT”. “KHÔNG ĐỂ MẤT MỘT AI” Đó là ý muốn của Chúa Cha. Thánh Phaolô, qua thư Rôma, giải thích rõ ràng rằng “ngay khi chúng ta còn là tội nhân, Đức Kitô đã chết vì chúng ta. Người chết cho chúng ta được cứu, khi chúng ta không có sức làm được gì để cứu lấy mình”. Không để mất một ai là “bằng chứng Thiên Chúa yêu thương ta vô cùng. Ngay khi ta còn thù nghịch với Thiên Chúa, Ngài vẫn để Con Ngài chết. Ngài muốn cứu ta khỏi cơn thịnh nộ của Thiên Chúa, bằng cách cho ta được nên công chính nhờ máu Đức Kitô đổ ra. Làm vậy là để ta được hoà giải với Thiên Chúa. Giải pháp ấy là kế hoạch cứu chuộc được thực hiện nhờ Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng ta” Rm 5, 6-11. Chúa Giêsu nói rõ ý định của Chúa Cha cho người Do Thái biết, Chúa Cha muốn Ngài không được để người nào phải hư mất, không để người nào phải chết nhưng sẽ được sống mãi, sống vĩnh viễn, cho dù họ phải chết, cái chết do hậu quả của tội nguyên tổ. Cái chết này cũng không cản trở được ý muốn của Thiên Chúa. “NHƯNG SẼ CHO HỌ SỐNG LẠI TRONG NGÀY SAU HẾT” Trong cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu và Matta khi Ladarô chết “Cô Mác-ta nói với Chúa Giê-su “Thưa Thầy, nếu có Thầy ở đây, em con đã không chết. Nhưng bây giờ con biết Bất cứ điều gì Thầy xin cùng Thiên Chúa, Người cũng sẽ ban cho Thầy.” Đức Giê-su nói “Em chị sẽ sống lại!” Cô Mác-ta thưa “Con biết em con sẽ sống lại, khi kẻ chết sống lại trong ngày sau hết.” Đức Giê-su liền phán “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống. Ai sống và tin vào Thầy, sẽ không bao giờ phải chết. Chị có tin thế không? ” Cô Mác-ta đáp “Thưa Thầy, có. Con vẫn tin Thầy là Đức Ki-tô, Con Thiên Chúa, Đấng phải đến thế gian.” Ga 11, 21-27 Chúa Giêsu đã khẳng định với Matta, Ngài là sự sống lại và là sự sống. CHÚA GIÊSU LÀ SỰ SỐNG Do đó ai tin vào Ngài sẽ không bao giờ chết, ý nói về phần linh hồn con người. Linh hồn con người không bao giờ chết cho dù thân xác đã chết Linh hồn chỉ thay đổi chứ không mất đi. Vì Chúa là sự sống nên ai tin vào Ngài cũng sẽ sống, họ sống bằng một sức sống mãnh liệt chứ không phải là những thây ma biết đi. CHÚA GIÊSU LÀ SỰ SỐNG LẠI Một khi tin vào Ngài, cho dù có chết cũng sẽ được sống, ý nói về thân xác. Thân xác sẽ được phục sinh trong ngay sau hết. Mọi người sẽ được sống lại trong Ngày Cánh chung, Ngày tận thế. “THẬT VẬY, Ý CỦA CHA TÔI LÀ TẤT CẢ NHỮNG AI THẤY NGƯỜI CON VÀ TIN VÀO NGƯỜI CON, THÌ ĐƯỢC SỐNG MUÔN ĐỜI, VÀ TÔI SẼ CHO HỌ SỐNG LẠI TRONG NGÀY SAU HẾT.” Câu cuối cùng của Bài Tin mừng, Chúa Cha muốn tất cả những ai thấy Chúa Con và tin vào Chúa Con sẽ được sống muôn đời. Đó là ý muốn của Chúa Cha, còn Chúa Giêsu sẽ thực điều mà Chúa Cha muốn, Đức Giêsu sẽ cho họ sống lại. Vấn đề đặt ra Điều kiện để được sống muôn đời đó là THẤY và TIN vào Chúa Con. Vậy thử hỏi, những người sống trước thời Chúa Giêsu và sau thời Chúa Giêsu như chúng ta đây, họ không có phúc thấy Chúa Giêsu bằng xương bằng thị, họ có được sống muôn đời không? Ta còn nhớ lời Chúa Giêsu nói với Tôma khi ông cứng lòng tin, đòi phải được xem thấy Ngài mới chịu tin Ngài sống lại “Vì anh đã thấy Thầy, nên anh tin. Phúc thay những người không thấy mà tin!” Ga 20, 29. Như vậy từ “THẤY” ở đây có một ý nghĩa sâu xa, thấy bằng con mắt đức tin, đó mới là điều có phúc, còn thấy bằng xương bằng thịt, cái thấy đó mang giá trị thấp nhất. Chúng ta sống trong thời đại hôm nay vẫn thấy được Chúa Giêsu bằng con mắt đức tin của mình. Và những người sống trước thời Chúa Giêsu, cũng thấy được Ngài khi họ sống trong sự mong chờ Đấng Cứu Thế. Như vậy, câu nói của Chúa Giêsu “ý của Cha tôi là tất cả những ai thấy người Con và tin vào người Con, thì được sống muôn đời” luôn đúng cho mọi thời đại, từ khởi nguyên lập địa cho đến tận thế. Chúng ta bước vào tháng 11, tháng dành riêng cầu nguyện cho các người đã qua đời. Thực ra, chẳng ngày nào mà Giáo Hội, qua các Thánh Lễ, lại chẳng cầu nguyện cho họ. Nhưng tháng này, Giáo Hội muốn chúng ta sống ý thức hơn và thực hành mạnh mẽ hơn việc đạo đức này. Cầu nguyện cho những người đã khuất là một bổn phận không thể xao lãng của chúng ta. Đó cũng là một việc đạo đức tốt đẹp, có sức mạnh giáo dục đức tin của ta. Biết Chúa cứu, tin rằng Chúa không để mất một ai là một chuyện. Nhưng Giáo Hội luôn dạy chúng ta phải, bằng tinh thần hiệp thông luôn cầu nguyện cho mọi tín hữu đã qua đời, chứ không được ỷ nại vào Chúa. Hơn nữa, người tín hữu đã chết trong Ơn nghĩa Chúa, nhưng chưa sạch hết mọi tội, và chưa đền tội bằng những hình phạt tạm thời đời này, thì không thể vào thẳng Thiên đàng được, vì chưa xứng đáng hưởng Thánh Nhan Chúa. Thánh Gioan cảnh báo rõ trong sách Khải huyền “Tất cả những gì ô uế, cũng như bất cứ ai làm điều ghê tởm và gian tà, đều không được vào thành…” Kh 21, 27. Tất nhiên, họ phải chờ tinh luyện xong mới được vào Thiên đàng. Thời gian đó là thời gian xa cách Chúa. Nên Công đồng Florence 1439 mới định tín có LUYỆN NGỤC để tinh luyện các linh hồn. TRONG BÀI ĐỌC I, Trích sách Khôn Ngoan. Tác giả đã khẳng định một điều “”Chúa chấp nhận các ngài như của lễ toàn thiêu”. Vối niềm xác tín và một cái nhìn đức tin sâu xa, tác giả cho ta biết “CHẾT KHÔNG PHẢI LÀ HẾT”. Tác giả viết “Linh hồn những người công chính ở trong tay Chúa, và đau khổ sự chết không làm gì được các ngài. Đối với con mắt người không hiểu biết, thì hình như các ngài đã chết và việc các ngài từ biệt chúng ta, là như đi vào cõi tiêu diệt. Và trước mặt người đời, dầu các ngài đã chịu khổ hình, lòng cậy trông của các ngài cũng không chết”. Như vậy, linh hồn người công chính không bao giờ chết, họ vẫn sống và đang ở trong tay Chúa. Sự chết và sự đau khổ không thể tách họ ra tình thương của Thiên Chúa. Tuy họ đang chịu thanh luyện trong luyện ngục như là CỦA LỄ TOÀN THIÊU, nhưng đó chỉ là những giây phút thử thách ngắn ngủi TRONG BÀI ĐỌC II, Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Rôma. Thánh Phaolô đã khẳng định với các tín hữu Rôma “”Chúng ta đã nên công chính trong Máu của Người, và nhờ Người chúng ta được cứu khỏi cơn thịnh nộ”. Thánh Phaolô viết “chúng ta đã nên công chính trong máu của Người, và nhờ Người chúng ta sẽ được cứu khỏi cơn thịnh nộ. Bởi chưng nếu khi chúng ta còn là thù nghịch, mà chúng ta đã được giao hoà cùng Thiên Chúa nhờ cái chết của Con Ngài, thì huống chi khi đã được giao hoà, ắt chúng ta sẽ được cứu độ trong sự sống của chính Chúa Kitô. Thánh Phaolô nhắc nhở cho các Tín hữu Roma biết rằng “Chúng ta đã nên công chính trong Máu của Người, và nhờ Người chúng ta được cứu khỏi cơn thịnh nộ”. Có nghĩa, ta được nên công chính không phải nhờ những việc ta đạ làm, hoặc nên công chính nhờ vao một ai khác, mà ta nên công chính nhờ máu của Chúa Kitô đã đổ ra trên thánh giá. Các Đẳng linh hồn cũng đang nhờ máu Chúa Giêsu để được cứu rỗi. “Sau một giây lát chịu khổ nhục, các ngài sẽ được vinh dự lớn lao vì Chúa đã thử thách các ngài như thử vàng trong lửa, và chấp nhận các ngài như của lễ toàn thiêu”. Trong Thánh Lễ cầu cho các Đẳng linh hồn hôm nay, chúng ta hãy dâng lên Chúa lời cầu nguyện sau đây Lạy Chúa ! xin thương lấy linh hồn Tổ tiên, ông bà, cha mẹ anh em của chúng con. Xin Chúa đón họ về với Chúa. Và đặc biệt xin Chúa thương đến các linh hồn đã được Chúa gọi về trong cơn đại dịch covid 19 này, những linh hồn đã về với Chúa qua các thảm họa thiên nhiên. Họ là những người chẳng ai biết đến và chẳng có ai nhớ đến họ. Xin Chúa mở rộng lòng thương xót đón họ về với Chúa. Và nếu còn điều gì vướng mắc trên trần thế, thì xin nhờ Công nghiệp Con Chúa đã đổ máu ra cứu chuộc nhân loại, xin Chúa hãy tha thứ và đón nhận họ về với Chúa. Amen. ______________________ Giuse Vĩnh Tâm.
Tháng 11- tháng cầu nguyện cho các linh hồn, tháng để mỗi chúng ta tỏ lòng biết ơn với những người đã khuất, họ là tổ tiên, là những người làm ơn cho chúng ta hay chỉ là những người mồ côi hoặc các thiên thần nhí đã an nghỉ vĩnh hằng bên Chúa. Thời gian thật linh thiêng để trước là “ăn quả nhớ người trông cây” sau là tự chuẩn bị cho mình một hành trang trọn vẹn tiến về nhà Cha trên trời. Ngày mồng Hai tháng này, Giáo Hội ưu ái cách đặc biệt để người tín hữu cùng trở về với cội nguồn của mình, cùng suy niệm Mầu Nhiệm Phục Sinh của Chúa trong niềm tin tưởng tuyệt đối vào cuộc sống mai sau. Chúng ta vui mừng cùng quy tụ lại với nhau nơi huyệt mộ người thân yêu để dâng lên Chúa những lời cầu nguyên, van nài tha thiết trong thánh lễ thật sốt sắng tối qua được cử hành tại Nguyện đường Đức Mẹ Sầu Bi với sự chủ tế của cha xứ An-tôn, quý cha quê hương Vinh Sơn Nguyễn Văn Thắng và sự tham dự đông đảo con dân quê hương Xuân Dục thân thương. Yếu tố tâm linh đã được đề cao ngay từ những ngày xa xưa qua bài trích sách Macabe quyển thứ 2 trong bài đọc một cùng với đó lời Chúa đã thuật lại cách chân thực quyền năng của Người khi làm cho anh Lazaro sống lại từ cõi chết. Bài chia sẻ của cha quê hương Vinh Sơn đã làm sống lại tinh thần lạc quan, phó thác và trung thành của mỗi chúng ta vào Đấng Hằng Sống khi Ngài tuyên bố “Ta là sự sống lại và là sự sống”- đây chính là mấu chốt, là cơ sở để chúng ta mạnh dạn tuyên xưng Đức Tin và lòng đầy kiêu hãnh khi được Chúa bảo vệ trên mọi chặng đường cuộc đời. Đồng thời, cha Vinh Sơn cũng trình bày những lý do thuyết phục cho sự hiện diện của chúng ta ở nơi đây và một lần nữa nhắc lại tầm quan trọng của Thiên Chúa- là Anpha và Ô-mê-ga. “Những linh hồn trong luyên ngục sẽ trở thành Thánh” điều này được thể hiện cách chắc chắn qua lời tuyên bố hung hồn của Cha, nhưng điều quan trọng là “họ” đang cần sự cộng tác rất lớn từ những lời kinh nguyện chân thực của chúng ta. Hiểu rõ được mối dây tương quan giữa ta và các “vị Thánh tương lai”, mỗi tín hữu chúng ta hẳn đã tự có trong mình cách thức riêng để cùng chung hưởng niềm vui của các ngài trong tương lai. ——————— Thực hiện BTT Xuân Dục Bài viết Bích Phương Hình ảnh Văn Báu, Duy Khanh
Các bài suy niệm lễ cầu cho các tín hữu đã qua đời Sự thanh luyện cần thiết _ Lm Giuse Nguyễn Hữu An. 1 Các linh hồn. 3 Sống lại 4 Các linh hồn. 5 Nghĩ về sự chết – ĐGM Bùi Tuần. 6 Luyện ngục. 8 Luyện ngục. 9 Bên kia sự chết 10 Lễ cầu nguyện cho các linh hồn – JK. 10 Các tín hữu đã qua đời 13 Họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa. 14 Thân xác và linh hồn – John W. Martens Chuyển ngữ Văn Hào SDB 15 Hãy nhớ đến công đức của các ngài – Tu sĩ Jos. Vinc. Ngọc Biển, SSP. 16 Luyện ngục. 18 Mầu Nhiệm Các Thánh Cùng Thôngcông _ Lm Đan Vinh – Hhtm.. 19 1. Sự thanh luyện cần thiết _ Lm Giuse Nguyễn Hữu An Tháng 11, trong tinh thần hiệp thông, Giáo hội tưởng niệm và cầu nguyện cho mọi tín hữu đã qua đời hiện đang còn thanh luyện trước khi hưởng hạnh phúc vĩnh cửu. 1/ Các linh hồn cần được thanh luyện. Những tín hữu đã chết trong ơn nghĩa Chúa nhưng chưa sạch hết mọi tội và chưa đền tội bằng những hình phạt tạm thời này thì không thể vào thẳng thiên đàng được, chưa xứng đáng hưởng nhan thánh Chúa nên họ phải chờ đợi thanh luyện xong mới vào thiên đàng. Thời gian đó là thời gian xa cách Chúa. Công đồng Floren đã định tín “Có luyện ngục để thanh luyện các linh hồn”. Các linh hồn ra khỏi trần gian không còn có thể làm được việc gì lành để cứu mình nên chỉ trông cậy vào những người còn sống lập công cầu nguyện cho mình để rút ngắn thời gian thanh luyện. Vì thế mà Giáo hội kêu gọi tín hữu cầu nguyện cho các linh hồn nơi luyện tội. Đặc biệt là việc dâng thánh lễ, dành tháng 11 cầu nguyện cho họ. Giáo hội còn mở kho tàng ân xá là công nghiệp của các Thánh để nhường cho các linh hồn nơi luyện tội. Giáo hội khuyến khích việc đi viếng các nghĩa địa, sửa sang mồ mả và cầu nguyện cho các linh hồn theo câu tục ngữ mồ thật chôn các người chết là trái tim người sống. Công đồng Vatican II đã xác tín lại tín điều Giáo hội cùng thông công giữa ba thành phần lữ hành, thanh luyện và vinh thắng. Cả ba thành phần đều hiệp thông với nhau trong đức mến và truyền thông cho nhau những của cải thiêng liêng. “Trong số những môn đệ của Chúa, có những kẻ tiếp tục cuộc hành trình nơi dương thế, có những kẻ hoàn tất cuộc sống này nhưng đang được thanh luyện, và có những người đang được chiêm ngưỡng “rõ ràng Thiên Chúa duy nhất trong Ba Ngôi như Ngài hằng có”…Sự hiệp nhất giữa những người còn sống trên dương thế với các anh em đã yên nghĩ trong bình an Chúa Kitô không hề bị gián đoạn. Nhưng trái lại, Giáo hội xưa nay luôn tin rằng sự hiệp nhất đó còn được vững mạnh hơn nhờ việc truyền thông cho nhau những của cải thiêng liêng. Quả thực, nhờ kết hiệp mật với Chúa Kitô hơn, các người ở trên trời cũng cố toàn thể Giáo hội vững bền hơn trong sự thánh thiện, làm cho việc thờ phượng mà hiện nay Giáo hội tại thế dâng lên Thiên Chúa được cao cả hơn, và họ góp phần phát triển Giáo hội rộng rãi hơn bằng nhiều cách”. LG, chương 7, số 49. Trong số 50, Hiến Chế Lumen Gentium viết nhận biết sự đúng đắn sự hiệp thông này trong toàn Nhiệm Thể Chúa Giêsu Kitô, ngay từ buổi đầu của Kitô giáo, Giáo hội lữ hành hết lòng kính nhớ, dâng lời cầu nguyện cho những người đã chết vì “cầu nguyện cho những người đã chết để họ được giải thoát khỏi tội lỗi là một việc lành thánh tốt đẹp” 2 Mac 12,46. Việc lành thánh tốt đẹp ấy được nói đến trong Thánh kinh và giáo huấn của Giáo hội. Thánh kinh Hai đoạn văn thường được nhắc đến là 2 Macabê 12,39-46 và 1Côrintô 3,10-15. Một bản văn thuộc Cựu ước và một thuộc Tân ước. Sách Macabê II sách được viết vào khoảng năm 124 trước công nguyên, đánh dấu nhiều bước tiến trong mạc khải cánh chung. Ở chuơng 7, chúng ta gặp thấy chứng tích về niềm tin vào sự sống lại dành cho các vị tử đạo. Chương 11, chúng ta lại thấy chứng tích về việc cầu nguyện cho người đã qua đời được thúc đẩy bởi niềm tin vào sự phục sinh. Thư thứ nhất Côrintô Bản văn nói đến sự thanh luyện. Đoạn văn đã được sử dụng để nói tới sự phân biệt ba hạng người sau khi chết những người lành được lên thiên đàng, những người xấu phải xuống hoả ngục, hạng người thứ ba được cứu rỗi nhưng cũng cần được thanh luyện bằng lửa, tức là lửa thanh luyện. Trong bối cảnh tổng quát của mạc khải, có thể biện minh sự hiện hữu của việc thanh luyện tội lỗi sau khi chết với ba lý chứng sau đây sự thanh sạch cần thiết để được đến gần Chúa 29,4; Lêvi 11; Tv 24,3-4; Is 35, Mt 5, Kh 21,27; trách nhiệm cá nhân trong việc đền tội x. 2Sm 12,13-15; và giá trị của sự cầu nguyện cho người qua đời x. 2Mac 12,40; 1Cor 15,29; 2 Tim 1,16-18. Giáo huấn Giáo hội Công đồng Vatican II bàn đến tình trạng thanh luyện sau khi chết ở chương VII của hiên chế Lumen Gentium. Số 49, Công đồng nhìn nhận rằng “có những tín hữu đã qua đời và đang được thanh luyện”. Số 50, đạo lý về sự thông hiệp giữa hết mọi phần tử Giáo hội được dựa trên thói tục bắt nguồn từ thưở ban đầu Kitô giáo về sự tưởng niệm người chết và cầu nguyện cho họ. Phần kết chương VII trình bày về đường hướng mục vụ, Công đồng tái khẳng định đạo lý cổ truyền của Giáo hội “ Thánh Công Đồng kính cẩn đón nhận niềm tin cao trọng của tiền nhân chúng ta trong việc hiệp thông sống động với các anh em được vinh hiển trên trời hay còn phải thanh luyện sau khi chết, và lấy lại các sắc lệnh của thánh Công đồng Nicêa II, Firence, Trento số 51 a” Sách giáo lý Giáo hội Công giáo Các số 1030 -1032 bàn đến sự thanh luyện. Có thể tóm lại trong các điểm sau – Các linh hồn cần được thanh luyện để hoàn tất sự thánh thiện cần thiết để được vào thiên đàng. Số 1030. Lưu ý là sự thanh luyện được hiểu về trạng thái hơn là một nơi chốn’, lại càng không thể nói “thời gian” bao lâu. – Các linh hồn có thể được chúng ta giúp đỡ bằng lời cầu nguyện. Số 1032 – Luyện ngục không phải là một hoả ngục ngắn hạn Số 1031, luyện ngục hoàn toàn khác xa hoả ngục. – Sách giáo lý có trích dẫn cụm từ lửa thanh luyện” x. 1Cor 3,15; 1Pr 1,7 nhưng không nói là phải hiểu theo nghĩa đen hay nghĩa bóng Số 1032. 2/ Các linh hồn được thanh luyện bằng cách nào ? Truyền thống Giáo hội nói rằng các linh hồn được thanh tẩy bằng lửa, lửa tình yêu x. Dc 8,7, lòng khát khao thấy Thiên Chúa. Sự đau khổ trong day dứt hối hận tột độ. Các linh hồn mong hưởng nhan thánh Chúa nhưng lại chưa được vì mình chưa trong sạch xứng đáng nên phải thanh luyện bằng sự hối hận đầy lòng mến. Thánh Tôma cho rằng nguyên sự nôn nao muốn về thiên đàng cũng đã đủ tạo nên cực hình rồi x. IV Sent, de Purgatorio, Thực vậy, nếu các tội nhân hoả ngục đau đớn vì mãi mãi lìa xa Chúa, thì các linh hồn đang thanh luyện phải trải qua một thứ cực hình khác họ mong mỏi mau đựoc về với Chúa. Sự náo nức vì chờ đợi kẻ thân yêu cũng đã đủ “thiêu đốt tâm can” rồi ! Dù sao, một khi họ biết được lý do vì sao họ chưa được vào thiên đàng, họ sẽ đau buồn vì trước kia họ chưa mến Chúa cho đủ, họ đã coi nhẹ việc thống hối đền tội. Do đó có thể hiểu rằng nổi thống khổ của các linh hồn thanh luyện tuy cực độ nhưng đượm màu hân hoan và tràn trể hy vọng. Đức Cha Tihaner quan niệm rằng luyện ngục là một hoả ngục đầy hân hoan, là một thiên đàng đầy đau khổ. Chính linh hồn ý thức tình trạng bất xứng của mình trước sự thánh thiện của Thiên Chúa, vì thế tự nguyện được thanh tẩy. Giống như khi ta vào căn nhà nào lát gạch men bóng loáng, thì tự nhiên phải để dép ở ngoài. Nếu chân ta dính nhiều bùn đất mà muốn vào phải rửa chân cho sạch. Chính linh hồn muốn trở nên thanh khiết hơn, trưởng thành hơn, trong sáng hơn để được hiệp nhất với Thiên Chúa nên đón nhận những đau khổ do việc thanh luyện như là một phương thế cần thiết. Bởi đó trong luyện ngục, hạnh phúc đã bắt đầu chớm nở. Đây là một thứ đau đớn làm sung sướng hay một thứ hạnh phúc pha lẫn đau khổ. Nhìn dưới lăng kính tình yêu, các linh hồn đau đớn do hình phạt đền tội, do sự khắc khoải vì chưa được lên thiên đàng. Nhưng họ vui sướng bởi vì chính tình yêu Chúa đang thanh luyện họ, họ đang tập “yêu mến” cách trọn hảo hơn, cắt đứt những ràng buộc với thọ tạo. Họ cũng vui sướng vì họ đã được đảm bảo về phần rỗi, bởi vì họ chắc chắn rằng mình sống trong ân sủng và đức ái. Sự thanh luyện nói lên lòng lân tuất của Thiên Chúa Ngài muốn chúng ta nên hoàn thiện, thanh sạch ngõ hầu xứng đáng chiêm ngắm nhan Ngài. Sự thanh luyện cũng nói lên tình yêu của Thiên Chúa Ngài muốn cho chúng ta dành trọn cả mối tình cho Ngài chứ không quyến luyến với thọ tạo nào. 3/ Cần phải cầu nguyện cho các linh hồn Sự thanh luyện thuộc về “cánh chung trung thời” bởi vì nó sẽ không tồn tại sau ngày tận thệ thế nữa. Luyện ngục chỉ là thời gian tạm trú. Không ai có hộ khẩu thường trú ở đó cả. Luyện ngục chỉ là một chuyến đò ngang. Thiên Chúa mới là bến bờ. Đời sống vĩnh cửu mới là cùng đích, là phần thưởng Thiên Chúa hứa ban. Đạo lý về sự thanh luyện thúc giục chúng ta cầu nguyện cho các linh hồn đã qua đời. Tập tục này đã có từ cuối thời Cựu ước và trong suốt lịch sử Giáo hội x. GLCG số 1032; 958; 1371; 1689. Ngoài những hình thức cầu nguyện riêng tư, phụng vụ Giáo hội khuyến khích tục lệ này. Khởi đầu từ Thánh lễ, nơi đó Giáo hội hiệp thông với Các Thánh trên trời cũng như với các linh hồn còn đang chịu thanh luyện. Hằng năm, ngày 2 tháng 11 được dành để cầu nguyện cho tất cả các linh hồn đã qua đời tiếp sau lễ kính Các Thánh. Giáo hội còn dành cả tháng 11 nhớ đến các linh hồn và mời gọi con cái mình cầu nguyện, hy sinh hãm mình, làm việc bác ái như là nghĩa cử biểu lộ lòng yêu thương đối với họ cũng như tình hiệp thông trong nhiệm thể Chúa Kitô. 2. Các linh hồn Một người Mỹ tên là Habốc thành lập một hãng bưu điện kỳ quặc với cái tên giật gân “Liên minh thiên đàng”. Công việc của hãng này là chuyển thư từ của những ai muốn gởi đến những người thân quen đã qua đời. Thủ tục rất đơn giản người gởi chỉ cần viết thư trên một tờ giấy mẫu in sẵn và nộp một khoản cước phí là xong. Còn làm thế nào để chuyển lá thư ấy đến tay người chết là phận vụ của bưu điện. “Liên minh thiên đàng”. Theo lời ông Habốc quả quyết thư gởi nhất định sẽ tới tay người nhận do nhân viên đưa thưa của hãng là những người sắp chết tình nguyện chuyển giùm. Những nhân viên tình nguyện này sẽ học thuộc lòng nội dung bức thư và cam kết sẽ nhắn lại đầy đủ với người nhận. Hơn nữa “Liên minh thiên đàng” tuyển chọn nhân viên của mình rất cẩn thận. Họ phải là người trong sạch, không có gì mờ ám trước khi Chúa gọi lìa khỏi đời này, nên nhất định họ sẽ lên thiên đàng chứ không thể xuống hỏa ngục được. Do uy tín của hãng bưu điện này ngày càng tăng mạnh mẽ nên ông Habốc đã mở rộng phạm vi hoạt động không những khắp nước Mỹ mà còn lan sang các lục địa khác nữa. Mới nghe qua, nhất là đối với những người vô tôn giáo hay không tin có đời sau thì câu chuyện trên chẳng những kỳ quặc mà còn phi lý không thể chấp nhận được. Nhưng còn đối với chúng ta không có gì đáng ngạc nhiên cả, chẳng qua chỉ có khác về cách thức liên hệ mà thôi. Bởi vì, giáo lý công giáo đã trình rõ ràng từng chi tiết mối dây liên hệ giữa người còn sống và kẻ đã chết bằng một tín điều quan trọng buộc mọi người phải tin và phải thực hành đó là tín điều Các Thánh cùng thông công. Tuy nhiên, một điều khác biệt giữa tín điều của người công giáo và hãng bưu điện “Liên minh thiên đàng” của Habốc là cách thức liên lạc với chết. Cách thức của ông Habốc vừa thiên về vật chất vừa dựa vào khả năng giới hạn của con người nên rất khó mà đạt được mong muốn. Còn các thức liên lạc với người quá cố của đạo công giáo phần lớn nhờ vào quyền năng, lời bảo đảm của Chúa, cũng như được minh chứng cụ thể do những cuộc hiện về của các linh hồn mà Chúa cho phép. Như thế, việc liên hệ với người thân quen đã qua đời đối với chúng ta là một chuyện thường tình, dễ dàng và có từ ngàn xưa. Chỉ còn lại một công đoạn cuối cùng là chúng ta có muốn liên lạc hay không mà thôi. Thật vậy, con người sống được với nhau là nhờ ân nghĩa. Tình nghĩa càng thắm thiết càng thương nhớ đến nhau và muốn sống mãi bên nhau, nhất là đối với những người thân quen đã qua đời. Hơn nữa, khi biết sống tình nghĩa với nhau cách đằm thắm hay nhạt nhẽo thì mới rõ ai tốt hay xấu, ai thật lòng ai gian dối. Do đó, tình nghĩa không những là một nhu cầu cần thiết cho đời sống mà còn là một bổn phận, trách nhiệm phải đền đáp, chu toàn hết khả năng sẵn có. Nếu thế thì chúng ta, những người còn sống tại dương thế, đang có tự do hành động theo ý muốn của mình lại càng sống thật tình nghĩa với những người đã khuất vì giờ đây họ chẳng khác gì những tù nhân chỉ còn trông mong sự cứu giúp của chúng ta mà thôi. Nhưng sống tình nghĩa với những người đã chết không có nghĩa là nhớ lại những kỷ niệm, những hình ảnh, dáng điệu, lời nói của họ để mà thương tiếc, nhớ nhung, trái lại điều quan trọng là hãy biến những tình cảm đó thành những hành động thương yêu thật cụ thể và có giá trị đời đời. Đó là lý do chính yếu của ngày lễ hôm nay và trong tháng 11 này mà Giáo hội đề xướng ra để kêu gọi toàn thể mọi người hãy hướng lòng về những người thân quen cũng như xa lạ đã qua đời, nhất là ra sức tìm kiếm những tặng phẩm thiêng liêng để gởi làm quà cho họ. Và một khi đã biết rõ cách thức gởi, gởi những gì và gởi nhờ ai thì sẽ đến tay các linh hồn. Chỉ còn lại khâu cuối cùng là chúng ta có hăng say kiếm quà mà gởi hay không mà thôi. Và nếu những người thân quen ở bên kia thế giới đang quằn quại đau khổ trăm chiều, từng giây từng phút đợi chờ sự cứu giúp của chúng ta, được chóng giải thoát cực hình hay phải giam phạt thêm là hoàn toàn do chúng ta có thương xót hay thờ ơ mà thôi, chẳng lẽ chúng ta cứ thờ ơ, lãng quên họ mãi hay sao? Vậy hãy mau cố gắng hết sức, tìm đủ mọi cách để giải thoát cho họ như siêng năng xưng tội rước lễ, làm việc lành phúc đức, ăn chay hãm mình, xin lễ cầu nguyện… Và nếu chúng ta cứu được các Đẳng, chắc chắn các Ngài sẽ không bao giờ quên ơn chúng ta. Đó là chưa nói đến tình máu mủ mà chắc chắn không ai trong chúng ta nở lòng nào quên tình nghĩa với ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con cái, cháu chắt, họ hàng thân thuộc đã qua đời chờ sự cứu giúp của chúng ta. Còn xét về mặt trách nhiệm, nếu những ai đã làm ơn cho chúng ta hoặc vì lỗi lầm gương xấu của chúng ta mà đang bị gian cầm, chúng ta cần phải đền ơn và chuộc lỗi lầm cho họ. Vậy ai còn sống mà không biết tưởng nhớ đến người chết thì kẻ đó không phải là con người. Và ai chỉ biết tưởng nhớ suông mà không biết làm những việc lành phúc đức cụ thể thì cũng không thể xứng đáng lám con cái của Chúa. 3. Sống lại Trong tháng 11 là tháng dành riêng để cầu nguyện cho người chết, chúng ta cũng được mời gọi để suy niệm về sự chết. Tác giả Elizabeth Khoctheoros, một chuyên gia tâm lý về cái chết đã phát biểu trong buổi khải giảng tại một trường học ở Mỹ như sau “Ở cuối đời chỉ có một điều thực sự đáng kể là phải tự hỏi rằng mình đã có can đảm để sống không?”. Phải tự hỏi mình có can đảm để sống không? Bởi vì phần đông trong chúng ta ai cũng sợ sự chết và nhất là sợ chết. Quả thực, chết là một thực tại đáng sợ nhất trong cuộc đời, chết là một hành động phản tự nhiên nhất là ta phải trải qua trong cuộc sống. Chính vì thế về mặt luân lý người ta không ngừng đi tìm đủ mọi cách để tránh nghĩ về sự chết hay phủ nhận cái chết sẽ không đến với chúng ta. Trong ngôn ngữ thông thường dường như chúng ta cũng tránh nói đến cái chết, người chết được gọi là người quá cố, người khuất núi, người đã yên giấc nghìn thu hay người đã ra đi trước chúng ta. Nhưng muốn hay không cái chết vẫn là người bạn đồng hành mỗi ngày với chúng ta, chúng ta chứng kiến không biết bao nhiêu người thân thương ruột thịt chết, chúng ta chứng kiến cái chết qua các qua cái phương tiện truyền thông mỗi ngày. Đối với những người không có niềm tin, cái chết quả là một phi lý nhất trong cuộc sống, nhưng đối với những ai có niềm tin thì chính cái chết mang lại ý nghĩa cho cuộc sống, đó là thái độ mà mỗi Kitô hữu vẫn thể hiện khi đứng trước cái chết. Cái chết mang lại ý nghĩa cho cuộc sống, bởi chúng ta vẫn tin rằng bên kia cái chết cuộc sống vẫn tiếp tục, đó là cuộc sống trong cõi phúc trường sinh. Đây là niềm tin, niềm hy vọng mà chúng ta được mời gọi để nuôi dưỡng mỗi ngày. Tin Mừng hôm nay mời gọi chúng ta củng cố niềm tin và hy vọng. Chúa Giêsu không những rao giảng về sự sống lại, chính Ngài là sự sống lại, sự Phục sinh của Ngài là bảo chứng của cuộc sống và làm chứng cho lời rao giảng của Ngài. Chính sự Phục sinh của Ngài mà niềm của chúng ta được xây dựng. Thật thế, như lời thánh Phaolô khẳng định trong thư gởi giáo đoàn Côrintô “Nếu Chúa Giêsu không sống lại thì Đức tin của chúng ta thật là hão huyền”. Niềm tin vào sự Phục sinh mang lại ý nghĩa cho cuộc sống chúng ta, với niềm tin Phục sinh chúng ta tìm được can đảm để sống, mặc dù có trải qua nghịch cảnh thử thách, khổ đau; với niềm tin Phục sinh chúng ta vẫn tiếp tục tìm thấy ý nghĩa cuộc sống. Tháng 11 chúng ta không khỏi ngậm ngùi nhớ lại người thân thương đã chết, chia ly cách biệt vẫn là nỗi đau nhất trong cuộc sống. Nhưng với niềm tin Phục sinh, chết như được dẹp bỏ, người chết như vẫn hiện diện gần gũi với chúng ta. Đây chính là nguồn diễm phúc của những ai có niềm tin vào sự sống lại. 4. Các linh hồn Tục ngữ Việt Nam có câu Con người có cố có ông, như cây có cội như sông có nguồn. Hay con ai chẳng là con cha, cháu ai là chẳng cháu bà cháu ông. Hai chữ cội nguồn đã mang lại toàn bộ ý nghĩa của đạo làm con đối với các bậc sinh thành mà bất cứ ai sinh ra trong cuộc đời đều có bổn phận phải ghi nhớ và gìn giữ. Theo tháng năm, từ đông sang tây, từ bắc chí nam, đâu đâu cũng vang lên giai điệu về chữ hiếu như là lời báo đáp và ghi ơn tổ tiên mình. Chính vì thế, hàng năm Giáo Hội công giáo đã dành trọn tháng 11 để tưởng nhớ những người quá cố, để sống lại đạo làm con. Người công giáo vẫn có thói quen tốt lành xin lễ cho ông bà tổ tiên, viếng nghĩa trang cùng với việc tảo mộ. Ngoài ra, trong ba ngày đầu năm, Giáo Hội Việt Nam đã dành ngày mồng hai tết để kính nhớ tổ tiên ông bà cha mẹ. Hòa lẫn với chủ đề kính nhớ tổ tiên, Giáo Hội cũng đã nhắn gửi tới từng người con phải biết yêu chuộng ý nghĩa thiêng liêng cao cả con ơi giữ lấy lời cha, chớ quên lời mẹ nhớ mà ghi tâm. Cũng thế, anh em Phật giáo hàng năm vào ngày rằm tháng bảy âm lịch cũng có mùa vu lan để báo hiếu. Vào dịp này, mỗi người đều xướng lên tám lòng biết ơn của mình. Có người không quen ăn chay trường, song vào thời điểm này, người ta thể hiện lòng hiếu đó bằng việc ăn chay trọn tháng bảy âm lịch, hay có những người bận rộn công việc đời thường vào dịp này họ cố gắng thu xếp thời gian để đến một ngôi chùa quen thuộc dự lễ cầu siêu cho linh hồn ông bà cha mẹ đã qua đời. Họ tin rằng nhờ đó, bổn phận của họ được chu toàn. Với truyền thống lâu đời của người phật tử là cầu mong để được đáp đền ơn tam bảo, báo hiếu cha mẹ sinh thành dưỡng dục… Còn ở Tây phương, người ta không có tục thờ cúng tổ tiên bởi vì chữ hiếu nơi họ không được nâng lên thành đạo. Thế nhưng họ có những ngày mà người Việt Nam chúng ta chưa có. Họ đã chọn ra hai ngày trong năm để tưởng nhớ công ơn sinh thành của cha mẹ. Đó là ngày của mẹ mother’s. day vào ngày chúa nhật thứ hai trong tháng năm và ngày của cha father’s. day vào ngày chúa nhật thứ ba trong tháng sáu. Quả là đã mang trong mình dòng máu linh thiêng của tổ tiên, dù là người công giáo, phật giáo hay bất cứ ai cũng đều thể hiện lòng biết ơn một cách trân trọng đối với các bậc sinh thành. Trở về cội nguồn tổ tiên, chúng ta một lần nữa nói lên lòng biết ơn sâu sắc, đối với cácbậc tiền nhân. Vì thế, chúng ta cùng nhau thắp lên một nén nhang để cùng nhớ ơn, ca ngợi công ơn tổ tiên và cầu nguyện cho tất cả những ai đã từng một lần chắp cánh cho chúng ta buớc vào cuộc đời và sống trọn vẹn ý nghĩa của con người. 5. Nghĩ về sự chết – ĐGM Bùi Tuần Tôi biết là có ngày tôi sẽ chết. Mặc dầu tôi không biết sẽ chết ngày giờ nào, nơi nào, cách nào. Chắc chắn tôi phải chết. Đó là một chân lý hết sức rõ ràng và chắc chắn. Chân lý này, không ai đã dạy tôi. Nó nằm ngay trong con người của tôi. Cái chết cũng là một biến cố đụng tới mọi người. Nó là một vấn đề chung. Vấn đề này được coi là hết sức quan trọng. Bởi vì nó đặt ra câu hỏi Đâu là ý nghĩa cuộc sống? Cuộc đời đi về đâu? Bên kia sự chết có gì không? Câu trả lời theo lý thuyết có thể tìm được trong nhiều sách, nhất là sách đạo. Nhưng câu trả lời theo cảm nghiệm sẽ thường chỉ hiện lên một cách sống động, khi ta ở bên cạnh những người sắp chết, hoặc chính ta đã có lần thập tử nhất sinh. Những lúc đó, câu trả lời sẽ không phải là một kết luận lạnh lùng của triết học hay của giáo lý. Nhưng sẽ là cái gì linh thiêng thăm thẳm chứa trong những cảm tình, cảm xúc, cảm động, cảm thương, khi hiện tượng sự chết rập rình sát tới. Những hiện tượng khác thường nơi người sắp chết rất đa dạng. Có thể là những lo âu sợ hãi, những khắc khoải đợi chờ, những nắm bắt bâng khuâng, những ngóng trông mệt mỏi, những cái nhìn xa xăm. Cũng có thể là những bất bình tức giận, những chán nản phiền muộn, những buông xuôi tiếc nuối, những phấn đấu tuyệt vọng. Cũng có thể lại là những ăn năn đầy bình an toả sáng, mang dấu ấn của một nghị lực thiêng liêng và một tin tưởng đến từ cõi đời đời. Tất cả những hiện tượng như thế phản ánh những trực cảm nội tâm Đã tới lúc vĩnh biệt. Đã tới lúc ra đi. Đã tới lúc phải bỏ lại tất cả. Đã tới lúc phải trực diện với lương tâm. Lương tâm hỏi về trách nhiệm Trách nhiệm làm người nói chung và trách nhiệm làm con Chúa nói riêng. Trước đây, có nhiều điều về trách nhiệm đã lẩn trốn lương tâm. Nhưng lúc con người sắp chết, những điều lẩn trốn đó sẽ trở về trình diện rất nghiêm túc. Tôi có cảm tưởng là người sắp chết lúc đó sẽ nhận ra Sự sống của mình là một quà tặng Chúa ban. Ơn gọi được làm con Chúa càng là một ân huệ quí báu Chúa trao cho nhưng không. Chúa ban sự sống và ơn làm con Chúa, để mình phát triển mình và những người xung quanh trong những chặng đường lịch sử nhất định. Sự phát triển sẽ tuỳ ở ơn Chúa, nhưng cũng tuỳ thuộc vào sự tự do và tinh thần trách nhiệm của mỗi người. Thực tế cho thấy là đã có những phát triển đạo đức, và trái lại cũng có những phát triển tội lỗi. Với những phát triển tốt, người sắp chết cảm thấy được an ủi, coi như nhiệm vụ được trao đã phần nào hoàn thành. Trái lại nếu thấy những phát triển của mình là xấu, nhiệm vụ được trao đã không hoàn thành, họ sẽ không thể không sợ hãi. Bởi lẽ hậu quả sẽ vô cùng quan trọng. Vì chết là bước sang cõi đời sau với hai ngả thiên dàng và hoả ngục. Mà hai ngả này đều rất rõ ràng công minh. Vì thế, nói cho đúng, vấn đề đặt ra cho ta về cái chết sẽ không phải là sợ chết, mà là sợ chết dữ, chết mà sau đó không được lên thiên đàng, nhưng phải xuống hoả ngục. Những tư tưởng trên đây thường nhắc nhủ tôi về ba chọn lựa này Hãy tiến về sự chết của mình như tiến tới một quãng phải vượt qua, để về với Cha trên trời. Một khi nhìn sự chết của mình như thế, thì cuộc sống của mình cũng được hiểu theo hướng đó. Để đi đúng hướng về Cha trên trời, tôi chỉ có một đường phải chọn, đó là Chúa Giêsu Kitô. Người là đường, là sự thực và là sự sống Ga 14,6. Đón nhận Người, lắng nghe Người, đi theo Người, bắt chước Người. Người là gương mẫu cho ơn gọi làm người và ơn gọi làm con Thiên Chúa. Điều quan trọng tôi sẽ hết sức quan tâm trong việc theo Chúa Giêsu sống ơn gọi, là phải phấn đấu thanh luyện mình, phải biết khiêm tốn quên mình, dấn thân sống theo ý Chúa, để được trở thành tạo vật mới. Nếp sống kiêu căng cần phải bị loại tận gốc. Nếp sống cầu nguyện khiêm nhường cần được thường xuyên phát huy. Hãy tiến về sự chết của mình như người được sai đi truyền giáo, mong trở về với Đấng sai mình. Sống như người truyền giáo và chết như người truyền giáo. Truyền giáo một cách cụ thể ở địa phương này, ở thời điểm này. Nghĩa là một địa phương và thời điểm có nhiều khác biệt. Vì thế, tôi phải tỉnh thức lắng nghe hướng dẫn của Thánh Thần Đức Kitô. Ngài đang dẫn người truyền giáo vào chiều sâu. Ngài đang giúp người truyền giáo mở rộng nhiều liên đới. Ngài đang tạo ra cho nhà truyền giáo nhiều dịp để loan báo Tin Mừng. Tôi có luôn khiêm tốn cầu nguyện hồi tâm, để trở thành dụng cụ ngoan ngoãn trong tay Ngài không? Hãy tiến về sự chết của mình như người khắc khoải trở về với Đấng đã trao cho mình điều răn mới. Điều răn mới này, tôi nhận được từ Lời Chúa “Thầy ban cho chúng con một điều răn mới là chúng con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con” Ga 13,34. Để hiểu thấm thía hành trình tình yêu, tôi nên hằng ngày gẫm suy đoạn văn sau đây của thư thánh Gioan “Chúng ta biết rằng chúng ta đã từ cõi chết bước vào cõi sống, vì chúng ta yêu thương anh em. Kẻ không yêu thương, thì ở lại trong sự chết. Phàm ai ghét anh em mình, ấy là kẻ sát nhân. Và anh em biết không kẻ sát nhân nào có sự sống đời đời ở lại trong nó. Căn cứ vào điều này, chúng ta biết được tình yêu là gì đó là Đức Kitô đã thí mạng vì chúng ta. Như vậy, cả chúng ta nữa, chúng ta cũng phải thí mạng vì anh em. Nếu ai có của cải thế gian và thấy anh em mình lâm cảnh túng thiếu, mà chẳng động lòng thương, thì làm sao tình yêu Thiên Chúa ở lại trong người ấy được? Hỡi anh em là những người con bé nhỏ, chúng ta đừng yêu thương nơi đầu môi chót lưỡi, nhưng phải yêu thương cách chân thật và bằng việc làm. Căn cứ vào điều đó, chúng ta sẽ biết rằng chúng ta đứng về phía sự thật, và chúng ta sẽ được an lòng trước mặt Thiên Chúa”1Ga 3,14-19. “Phần chúng ta, chúng ta hãy yêu thương, vì Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta trước. Nếu ai nói “Tôi yêu mến Thiên Chúa” mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy. Đây là điều răn mà chúng ta đã nhận được từ Người ai yêu mến Thiên Chúa, thì cũng yêu thương anh em mình” 1 Ga 4,19-21 Khi tôi sống với những hướng kể trên, tôi sẽ coi sự chết như là một điểm chấm dứt nhiệm vụ. Nhiệm vụ được chấm dứt. Nhưng nhiệm vụ có được hoàn thành hay không, đó là chuyện khác và đó mới là điều quan trọng. Chúa sẽ phán xét công minh điều đó. Ở đây, tôi có lý do để lo, bởi vì tôi biết tôi đã lỗi phạm nhiều. Biết lo là điều tốt. Không phải lúc gần chết mới lo, mà phải lo ngay bây giờ. Biết lo ở đây là tìm cách sửa mình, đổi mới mình nên tốt hơn. Coi như bắt đầu lại. Khởi sự từ quyết tâm tận dụng ngày giờ còn lại và những phương tiện trong tầm tay để chu toàn các nhiệm vụ được trao một cách tốt đẹp nhất. Nhất là tỉnh thức ưu tiên đón nhận Nước Trời vào bản thân mình bằng sám hối và tin mến khiêm cung. Những nỗi lo như thế là chính đáng. Khi chúng ta làm hết sức mình, thì những nỗi lo đó sẽ đem lại những tiến triển và hân hoan. Với hân hoan và tin tưởng nơi Chúa giàu tình yêu thương xót, chúng ta bình tĩnh đi về sự chết. Sự chết lúc đó chỉ là bước sang sự sống mới vô cùng tốt đẹp hơn trước. Và như thế, sau cùng, chỉ có thần chết là phải chết thôi. 6. Luyện ngục Từ cổ chí kim, cũng như từ đông sang tây, người ta đều có truyền thống thương tiếc và an táng người quá cố một cách kính cẩn. Ngày xưa, người ta thương tiếc và dâng tặng người quá cố một thánh lễ an táng trọng thể, một bài điếu văn chải chuốt, rồi tụ tập ăn uống linh đình, tiếng khóc biến thành những câu chuyện ròn rã bễn cỗ bàn rượu thịt ê hề. Nỗi thương nhớ trôi mất theo từng ly rượu của bàn tiệc, để rồi khi tiệc tan, trở về nhà và không còn nghĩ gì đến người quá cố đang khổ đau vì bị thanh luyện nữa. Có một người sau khi chết được dẫn vào luyện ngục. Anh ta thấy mọi người trong đó đang đứng trong một vũng bùn lên tới quá đầu gối. Có người đang hút thuốc. Người khác thì uống cà phê và mọi người đều cười nói với nhau một cách vui vẻ. Anh ta thầm nghĩ Nếu luyện ngục là như vậy, thì đâu có gì tệ lắm. Vừa nghĩ thế, anh ta liền nhìn thấy một người trong bọn trông giống như một viên cai ngục, vỗ tay ra hiệu và tuyên bố Hết giờ nghỉ xả hơi rồi. Bây giờ hãy chống cằm xuống đất và chổng hai chân lên trời. Nghe đến đây, anh ta bỗng ngất xỉu. Thì ra đó chỉ là một giấc mơ. Vậy luyện ngục là gì? Dĩ nhiên luyện ngục không phải là một căn hầm hay một vũng bùn như trong câu chuyện vừa nghe. Theo lời các thánh, luyện ngục chính là nơi các linh hồn được thanh tầy, để trở nên trong sạch, xứng đáng được hưởng kiến tôn nhan thánh Chúa. Các linh hồn nơi luyện ngục chắc chắn đã được cứu độ, nhưng chưa phải là trong giây phút hiện tai. Do đó, luyện ngục thực sự là một dấu chứng của lòng Chúa xót thương. Một ông cụ luôn khuyên nhủ con cháu hằng ngày đọc kinh sớm tối kẻo mất linh hồn. Thế nhưng, một người con của cụ trả lời Không cần đọc nhiều, mà chỉ cần đọc ba kinh Kính mừng là đủ lên thiên đàng cả giường lẫn chiếu. Ông cụ đáp lại Lên thiên đàng, thì chúng mày đừng hòng. Tao chỉ mong chúng mày xuống luyện ngục là đã phúc lắm rồi. Thực trạng bất toàn của con người khiến chúng ta cảm thấy không xứng đáng được diện kiến, gặp gỡ mặt đối mặt với Thiên Chúa, bởi vì Ngài là đấn thánh thiện vô cùng. Sự thánh thiện của Thiên Chúa và tội lỗi là hai cái gì đối kháng nhau, như lửa với nước, như ánh sáng với bóng tối. Do đó, tội lỗi làm cho chúng ta phải xa lìa Thiên Chúa, khiến chúng ta quay lưng chống lại Ngài và đi ngược lại với bản tính thánh thiện tuyệt vời của Ngài. Thực vậy, Thiên Chúa thánh thiện không thể nào chấp nhận một chút bợn nhơ xấu xa nào trong vương quốc của Ngài. Đối với các linh hồn đáng thương còn mang dấu ấn của tội lỗi, thì luyện ngục chính là nới ẩn náu đầy yêu thương, là tiền đường của thiên đàng. Các ngài vui mừng trong đau khổ. Và nỗi đau khổ nặng nề nhất không phải là cực hình hỏa ngục, mà là khát vọng được diện kiến thánh nhan Thiên Chúa, mà hiện nay chưa được trở thành sự thật, mà vẫn còn bị trói buộc trong sợ mòn mỏi trông chờ và mong đợi. Với ý thức về tội lỗi của mình, các ngài sẽ không rời xa luyện ngục, cho tới khi được tẩy sạch mọi vết nhơ tội lỗi. Còn mang lầy một chút dấu vết của tội lỗi trong tâm hồn mình cũng là một đớn dau cho các ngài, khi cảm thấy mình bất xứng. Chính vì thế, trong niềm hiệp thông, chúng ta hãy giúp đỡ các ngài bài những hy sinh, những lời kinh và những thánh lễ chúng ta dâng lên, bởi vì đó mới chính là những điều các ngày đang cần đến, đỗng thời đó cũng là cách thức chúng ta báo hiếu, đền đáp công ơn của các ngài một cách sâu xa và có ý nghĩa nhất. 7. Luyện ngục Nói tới luyện ngục, hẳn chúng ta không khỏi có những cảm nghĩ buồn vui lẫn lộn. Vui vì người vào đó sớm muộn gì rồi cũng sẽ có ngày ra. Buồn vì số người vào đó chắc chắn là đông đảo. Hay nói một cách khác mấy ai sẽ thoát được lửa luyện tội? Ngay từ xa xưa, Giáo Hội vẫn tin rằng những người đã chết trong tình trạng ơn nghĩa cùng Chúa, nhưng còn vướng mắc những tội nhẹ, hay chưa đền bù hết những hình phạt tạm bởi tội, sẽ phải vào luyện ngục đền bù cho xong, rồi mới được lên thiên đàng, hưởng hạnh phúc muôn đời cùng Chúa. Cựu Ước đã đề cập tới luyện ngục khi ghi lại hành động cao đẹp của ông Macabêô, khi ông quyên tiền gửi về Giêrusalem để dâng của lễ xóa tội cho một số anh em binh lính đã chết, mà lúc còn sống đã mang trong mình những ảnh tượng ngẫu thần, là điều mà lề luật Do Thái ngăn cấm. Chúa Giêsu trong Tin Mừng cũng đã nói về luyện ngục Hãy liệu làm hòa với kẻ thù ngay lúc còn đi dọc đường với nó, kẻo kẻ thù sẽ đưa ngươi ra trước mặt quan tòa, quan tòa lại trao ngươi cho tên lính canh và ngươi sẽ bị tống vào ngục. Ta bảo thật cho ngươi biết ngươi sẽ không thoát khỏi nơi ấy cho đến khi trả hết đồng xu cuối cùng Mt 5,25. Ra khỏi đó, không phải là ra khỏi thiên đàng, vì thiên đàng không phải là nơi đền bù tội lỗi. Ra khỏi đó, cũng không phải là ra khỏi hỏa ngục vì một khi đã rơi vào hỏa ngục, thì đời đời không bao giờ ra được nữa. Như vậy, ra khỏi đó chỉ có thể hiểu là ra khỏi luyện ngục mà thôi. Tuy nhiên, việc ra khỏi đó lâu hay mau, còn tùy thuộc vào thời gian đền bù. Thật vậy, khi người ta cố tình phạm một tội trọng, thì đã đáng phải sa hỏa ngục. Thế nhưng, vì thật lòng ăn năn, nên tội trọng đó đã được tha, án phạt trầm luân đời đỡi đã được xóa bỏ, nhưng hình phạt tạm, nếu chưa được xóa bỏ hết, thì người ta vẫn phải đền ở đời này, hoặc đời sau trong luyện ngục. Những linh hồn trong luyện ngục phải chịu đau khổ, nhưng không còn lập được công như khi còn sống ở trần gian, bởi vì thời gian lập công đã hết. Các ngàiï phải chịu đau khổ, nhưng lại không thểu tự cứu lấy mình được. Các ngài phải ở đó cho tới khi trả hết đồng xu cuối cùng. Do đó, hình phạt ở luyện tội lâu hay mau còn tùy ở tội lỗi và sự đền bù của mỗi người. Tuy nhiên, những người còn đang sống vẫn có thể dâng những lời kinh, những hy sinh và những thánh lễ, để xin Chúa sớm giải thoát những linh hồn nơi luyện ngục, trong đó có ông bà, cha mẹ, anh chị em, họ hàng quyến thuộc và bạn hữu. Những người thân quen này, rất có thể vì yêu thương chúng ta, mà đã không tuân giữ những điều Chúa truyền dạy. Đồng thời chúng ta cũng hãy cầu nguyện cho các linh hồn mồ côi không ai tưởng nhớ đến. Thế nhưng trước hết và trên hết, chúng ta hãy cố gắng cải thiện đời sống, xa tránh tội lỗi, thực thi những việc bác ái yêu thương, để chỉ cho các linh hồn nơi luyện ngục, cũng như để bản thân chúng ta cũng được giảm bớt thời gian thanh luyện sau khi chết. 8. Bên kia sự chết Trên giường hấp hối, thánh Monica đã nhắn nhủ con ngài là Augustino như sau “Mẹ chỉ xin con một điều là hãy nhớ đến mẹ khi tới bàn tiệc thánh”. Có lẽ nhiều người trong chúng ta cũng đã được nghe nhiều lời van xin tương tự phát ra từ môi miệng của những người thân của chúng ta, trước khi từ giã cõi đời… Nhưng xa mặt cách lòng, nhiều người trong chúng ta lãng quên những lời van xin thống thiết ấy. Cần được thương, cần được nhớ đó là khát vọng tự nhiên của con người. Không ai muốn là một hoang đảo cô đơn. Dưới cái nhìn Đức Tin, lời van xin kẻ khác cầu nguyện cho, còn chứng tỏ một lòng khiêm tốn, một thái độ chấp nhận cái giới hạn mỏng manh bất lực của mình. Để giúp chúng ta có dịp đáp lại thỉnh cầu của những người đã đi vào thế giới bên kia và để thể hiện mối tình thông hiệp “các thánh thông công”, Giáo Hội ngay từ buổi đầu kỷ nguyên Kitô đã cổ động việc tưởng nhớ cầu nguyện cho những người quá cố. Những thế kỷ gần đây đã dành tháng 11 hằng năm cho việc đạo đức ấy. Hai ngày lễ mừng kính các thánh và cầu cho các linh hồn được ấn định vào hai ngày mùng một và mùng hai đầu tháng với những kinh nguyện rất ý nghĩa, nhắc chúng ta về sự hiệp thông trong Giáo Hội. Công đồng Vatican II trong hiến chế về Mầu Nhiệm Giáo Hội đã viết như sau “Giáo Hội lữ hành hết lòng kính nhớ, dâng lời cầu cho những người đã chết, vì cầu nguyện cho họ được giải thoát khỏi tội lỗi là một việc lành thánh…”.Nói về sự bầu cử của các đẳng linh hồn, Công Đồng viết như sau “Khi được về quê Trời và hiện diện trước nhan Chúa, nhờ Người, với Người và trong Người, các thánh lại không ngừng cầu bàu cho chúng ta bên Chúa Cha…”. Sự trao đi nhận lại đó vừa là một việc bác ái vừa là một bổn phận thảo hiếu đáp đền, đã thực sự củng cố Giáo Hội thêm vững bền trong sự thánh thiện. Quỳ cầu nguyện một mình trong nhà thờ, hay ngậm ngùi đốt lên một ngọn bạch lạp tại một nghĩa trang nào, có lẽ ai trong chúng ta cũng cảm thấy bùi ngùi xúc động khi nghĩ đến những người chết và chính cái chết. Chúng ta đang đứng giữa biên giới vô hình của sự sống và sự chết. Và một cách vô cùng huyền nhiệm và sống động, những người chết đang hiện diện với chúng ta bằng một sợi dây liên kết thâm sâu, thắm thiết… Cái chết không còn là một chấm hết cuối cùng đối với chúng ta nữa. Tình yêu mạnh hơn sự chết. Chính Tình Yêu đã làm cho những người đã chết được sống và cũng chính Tình Yêu liên kết chúng tư với những người chết. Vâng, chỉ có Tình Yêu mới làm cho con người được bất tử. Chỉ có Tình Yêu mới làm cho con người liên kết với những người đã chết. Chỉ có Tình Yêu mới mặc cho những nghĩa cử của con người sự bất diệt. Mỗi lần chúng ta hy sinh cho một người nào đó, mỗi lần chúng ta săn sóc một người đau yếu, an ủi một người đau khổ, bênh vực một người cô thế, hay cùng với những người khác dấn thân để canh tân cuộc sống… Chúng ta đang tiến dần đến sự bất thương chính là tái sinh, là sự thông dự vào sự sung mãn của cuộc sống. Đó phải là niềm tin của chúng ta trong ngày hôm nay khi chúng ta tưởng nhớ và cầu nguyện cho người quá cố. Xin Chúa nâng đỡ Đức Tin yếu kém của chúng ta, xin Ngài ban thêm niềm hy vọng cho chúng ta. 9. Lễ cầu nguyện cho các linh hồn – JK TIN MỪNG Lc 23, Câu hỏi gợi ý Thiên Chúa không muốn con người đau khổ, tại sao Ngài lại bắt linh hồn người chết phải thanh luyện cho hoàn hảo mới được vào thiên đàng? Chịu thanh luyện để nên hoàn hảo, Bản chất của sự hoàn hảo này là gì? Là tình yêu? đức tin? sự trong sạch? hay sự tôn trọng lề luật? hay sự gì khác? Người gian phi đầy tội lỗi trong bài Tin Mừng, tại sao lại được Đức Giêsu cho vào thiên đàng ngay? Vậy yếu tố cốt yếu nhất để vào thiên đàng là gì? Đọc kinh? cầu nguyện? dâng lễ? bố thí? giữ luật? hay tình yêu? lòng vị tha? CHIA SẺ 1- Niềm tin của người Công giáo về luyện ngục Hôm nay và suốt tháng 11 này, người Công giáo chúng ta đặc biệt quan tâm cầu nguyện cho những người quá cố. Chúng ta thường nghĩ họ đang phải chịu thanh luyện bằng đau khổ để trở nên hoàn hảo. Sự thanh luyện đó được Giáo Hội định tín Linh hồn kẻ chết chưa đền tội hoàn toàn sẽ được thanh luyện sau khi chết với những hình phạt được gọi là “Thanh Luyện”» DS 856/464. Mục đích của việc thanh luyện là làm cho linh hồn trở nên hoàn hảo, hoàn toàn vị tha, đầy tình thương, không còn một chút tâm địa ích kỷ, độc ác, tham lam nào nữa. Thiên Đàng đòi hỏi một sự hoàn hảo như thế thật là hợp lý, vì đó là một nơi» hoàn toàn hạnh phúc, hoàn toàn thánh thiện, là nơi» chúng ta sẽ trở về để hưởng hạnh phúc muôn đời. Gọi là nơi» thì chỉ là tạm gọi, vì thật ra, Thiên đàng, luyện ngục hay hỏa ngục không phải là nơi chốn, là không gian vật lý cho bằng là những tình trạng tâm linh hoặc tâm lý. Chẳng hạn Thiên Đàng là tình trạng tâm linh hoàn toàn hạnh phúc, không còn một chút đau khổ, của những tâm hồn hoàn hảo, thánh thiện. Còn Hỏa Ngục là tình trạng tâm linh hết sức đau khổ của những tâm hồn độc ác, xấu xa, ích kỷ… 2- Thiên đàng đòi hỏi người trong đó phải thật hoàn thiện Không cần phải xét về phía Thiên Chúa, mà ngay chính chúng ta cũng đòi hỏi rằng để vào Thiên Đàng thì phải thật trọn hảo. Thật vậy, thử hỏi, khi trở về nơi» lý tưởng đó để hưởng hạnh phúc, ta có thể hoàn toàn hạnh phúc khi phải sống chung với thân nhân, bạn bè với những tính nết xấu như họ đang có bây giờ không? Nếu người ở thiên đàng mà còn ích kỷ, còn ác ý, còn lãnh đạm, còn hẹp hòi, còn hay nghĩ xấu cho người khác, dù chỉ một chút xíu, thì chính bản thân họ sẽ đau khổ, đồng thời còn gây nên đau khổ cho người khác nữa. Chưa hoàn hảo mà đã sống ở Thiên Đàng thì ta sẽ làm ô nhiễm cái hạnh phúc tinh tuyền của Thiên Đàng, và biến Thiên Đàng trở thành một cái gì không còn là Thiên Đàng nữa. Do đó, Thiên Đàng đòi hỏi những người bước vào phải hoàn toàn trong sạch, tốt lành, nếu còn chút gì xấu xa thì phải thanh luyện cho hết. Tình trạng thanh luyện ấy được gọi là luyện ngục». 3- Tội lỗi hay tính vị kỷ là đầu mối gây đau khổ Chắc chắn Thiên Chúa không bao giờ muốn con người phải đau khổ. Việc Ngài sai Con Một mình xuống chịu chết một cách thảm thương để cứu nhân loại chứng tỏ điều ấy. Nhưng Ngài không thể trực tiếp cứu chúng ta khỏi đau khổ, mà chỉ có thể cứu chúng ta khỏi những nguyên nhân gây nên đau khổ là tội lỗi. Trong sách Khải Huyền, thánh Gioan viết Người đã yêu mến chúng ta và lấy máu mình rửa sạch tội lỗi chúng ta» Kh 1,5. Đau khổ chỉ là ngọn, còn tội lỗi mới là gốc. Muốn tránh khổ thì phải tránh tội lỗi. Diệt khổ thì chỉ là diệt ngọn, khổ vẫn có thể tiếp tục phát sinh. Diệt tội lỗi mới là diệt khổ tận gốc. Nhưng con người vì còn u mê nên thường sợ khổ chứ không sợ nguồn gốc phát sinh ra đau khổ là tội lỗi, là tính ích kỷ. Họ vẫn cứ tiếp tục phạm tội, sống ích kỷ. Vì thế, dù tìm đủ mọi cách để tránh khổ, con người vẫn cứ rơi vào đau khổ, hết khổ này đến khổ khác. Trong việc cứu khổ cho người khác, cho các linh hồn được thanh luyện, con người cũng chỉ nghĩ tới việc cứu họ khỏi đau khổ, chứ không nghĩ tới việc cứu họ khỏi những nguyên nhân gây đau khổ. Nguồn gốc của tội lỗi chính là tính ích kỷ, chỉ biết nghĩ tới đau khổ và hạnh phúc của mình, mà không quan tâm hay biết đến đau khổ và hạnh phúc của người khác. Vì thế, nguyên nhân sâu xa hơn của đau khổ chính là tính ích kỷ. 4- Tình yêu hóa giải đau khổ và đem lại hạnh phúc Nếu ích kỷ là nguồn gốc phát sinh đau khổ, thì ngược lại, tính vị tha hay tình yêu chính là nguồn tạo nên hạnh phúc. Do đó, người ta chỉ có thể vào được thiên đàng khi họ có đầy tràn tình yêu và không còn chút tính ích kỷ nào nữa. Nắm vững điều này, ta mới hiểu được ý nghĩa sâu xa câu nói Đức Giêsu, khi có người – vốn đã giữ rất chu đáo các lề luật – hỏi Ngài về cách đạt được sự sống đời đời Anh chỉ thiếu có một điều, là hãy đi bán những gì anh có mà cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi» Mc 10,21. Điều đó có nghĩa là phải biết yêu thương và thật sự thể hiện tình yêu ấy thì mới được sự sống đời đời, tức được hạnh phúc đích thực. Kho tàng ở trên trời mà mọi người muốn lên đó phải sắm cho mình chính là kho tàng tình yêu. Người trộm lành trong bài Tin Mừng hôm nay đã thể hiện được tinh thần vị tha và tình yêu ấy. Trong cảnh khổ như thế mà anh không hề nghĩ tới đau khổ của bản thân mình, mà chỉ nghĩ tới đau khổ của Đức Giêsu, thương cho Ngài bị hàm oan Chúng ta chịu như thế này là đích đáng, vì xứng với việc đã làm. Chứ ông này đâu có làm điều gì trái!». Chính vì thế, anh đã được Đức Giêsu nói Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng». Người trộm lành tuy đầy tội lỗi, nhưng cuối cùng anh đã phát tâm yêu thương, và tình yêu đã biến anh thành người tốt lành, xứng đáng với hạnh phúc thiên đàng. Đúng như câu nói của thánh Phaolô Tình yêu che phủ muôn vàn tội lỗi» 1Pr 4,8. 5- Chấp nhận đau khổ vì tình yêu là bí quyết của hạnh phúc Câu chuyện về người trộm lành trên làm tôi nghĩ đến một câu chuyện của Đức Phật. Trong một tiền kiếp nọ của ngài, ngài đã phạm một trọng tội khiến ngài bị đọa vào địa ngục. Tại đó, ngài cùng nhiều người khác bị đau khổ ghê gớm. Khi nhìn thấy những người trong đó đang quằn quại với những cực hình vô cùng đau đớn như mình, ngài thương họ vô cùng. Tình thương ấy khiến ngài phát tâm nguyện rằng Tôi nguyện sẵn sàng chịu thay cho mọi người trong địa ngục này tất cả những đau khổ mà họ đang phải chịu, để họ thoát khỏi những cực hình ghê gớm này! Vừa nguyện như thế xong thì lập tức ngài tự nhiên thoát khỏi cảnh đau khổ ấy. Còn những người kia thì vẫn tiếp tục ở lại đấy chịu đau khổ. Tôi chỉ coi chuyện trên như một dụ ngôn. Tuy không có thực, nhưng nó nói lên một chân lý mà chính tôi đã thực nghiệm thấy rất đúng. Khi tôi chỉ quan tâm chú ý tới những đau khổ tôi đang phải chịu, thì tôi thấy đau khổ ấy – một cách chủ quan – tăng lên gấp bội. Nhưng khi tôi quan tâm tới những đau khổ của người khác đang phải chịu, khi tôi muốn làm giảm bớt đau khổ cho họ, khi tôi chấp nhận chịu đau khổ thay cho họ, hay chịu khổ nhiều hơn nữa để họ bớt khổ hay để họ được hạnh phúc, thì lập tức tôi cảm thấy tâm hồn mình mạnh mẽ lên. Lúc ấy những đau khổ tôi đang chịu – tuy dù một cách khách quan không hề thay đổi, mà có thể còn tăng lên – bỗng nhiên mất đi tính dữ dội hay thảm khốc của chúng đối với tôi. Chúng không còn làm tôi đau khổ được như trước. Áp dụng kinh nghiệm này vào đời sống gia đình, tôi nhận thấy khi tôi sẵn sàng chấp nhận mọi vất vả, mọi đau khổ, mọi buồn phiền để làm những người thân yêu của tôi bớt khổ và được hạnh phúc, thì điều lạ lùng tôi cảm nghiệm được là tôi không hề đau khổ mà lại thấy hạnh phúc hơn. Tôi hạnh phúc hơn vì tôi thấy nhờ hành động ấy của tôi mà những người tôi yêu thương được hạnh phúc hơn. Điều làm họ hạnh phúc nhất là thấy tôi yêu thương họ, hết mình với họ. Và chính vì thế, họ cũng chẳng để tôi phải vất vả hay chịu đau khổ thay cho họ, ngược lại họ lại sẵn sàng chịu đau khổ thay cho tôi. Và thế là cả gia đình tôi – trong đó có tôi – đều cảm thấy hạnh phúc trong bầu khí đầm ấm yêu thương. Thế là chỉ vì tôi sẵn sàng chấp nhận mọi vất vả, cực nhọc, đau khổ thay cho những người thân yêu, mà tôi biến gia đình tôi thành một gia đình hạnh phúc. So với nhiều người chủ gia đình khác, tôi thấy mình hạnh phúc hơn họ nhiều, xét cả mặt khách quan lẫn chủ quan. Tôi nhận thấy không phải khi mình sẵn sàng chịu đau khổ thay cho người khác thì tất nhiên mình sẽ phải chịu đau khổ nhiều hơn đâu! Mà ngược lại, thái độ quên mình ấy lại đem lại hạnh phúc cho cả tôi lẫn những người chung quanh tôi. Đó là kinh nghiệm của tôi trong gia đình. Và tôi đang áp dụng kinh nghiệm này ra ngoài gia đình, trong xã hội… và tôi vẫn thấy nó đúng. Xin chia sẻ với mọi người kinh nghiệm có thật này để may ra hữu ích cho ai đó! CẦU NGUYỆN Lạy Cha, thánh Gioan nói Tình yêu không biết đến sợ hãi; trái lại, tình yêu hoàn hảo loại trừ sợ hãi, vì sợ hãi gắn liền với hình phạt và ai sợ hãi thì không đạt tới tình yêu hoàn hảo» 1Ga 4,18. Con cảm thấy chính khi con thật sự có tình yêu thì con không sợ đau khổ, mà sẵn sàng đón nhận đau khổ để người khác được hạnh phúc. Và khi con không sợ đau khổ, thì đau khổ không còn tác oai tác quái trên con nữa. Nó không còn khả năng làm con mất bình an hạnh phúc được nữa. Và con cảm thấy bình an và hạnh phúc do tình yêu đem lại chính là thiên đàng. Một thiên đàng mà con có thể cảm nghiệm trước ở ngay trần gian này. 10. Các tín hữu đã qua đời Trong thánh lễ cầu cho những người đã qua đời, chúng ta thường hát Lạy Chúa, xin cho các linh hồn được nghỉ yên muôn đời và cho ánh sáng ngàn thu chiếu soi trên các linh hồn ấy. Khi cầu xin với Chúa như vậy, chúng ta phải giả thiết các linh hồn ấy chưa đến được nơi hạnh phúc vĩnh cửu, nhưng đồng thời cũng không bị đày đọa trong hỏa ngục. Và dựa vào giáo lý, chúng ta đã biết luyện ngục là nơi đau khổ, trong đó linh hồn những người công chính sẽ phải thanh tẩy tội lỗi trước khi bước vào Nước Trời. Các linh hồn ấy không bị ném vào chốn cực hình muôn kiếp, nhưng cũng chưa được vào thiên đàng. Sở dĩ như vậy vì Thiên Chúa là Đấng thánh thiện và trong sạch vẹn toàn. Ngài không bao giờ chấp nhận chút bùn nhơ tội lỗi, dù là nhỏ bé tầm thường. Linh hồn vấp phạm đã được tha thứ, nhưng còn phải đền bù và thanh luyện về những sai lỗi ấy. Và thật là may mắn, chúng ta có thể giúp đỡ bằng những lời kinh, những hy sinh và những thánh lễ dâng lên cho Thiên Chúa, để xin Ngài xóa bỏ tội lỗi, giảm bớt hình phạt và mau giải phóng các linh hồn ấy. Sau đây chúng ta hãy lắng nghe một tiếng nói từ thế giới bên kia vọng về. Vào mùa chay năm 1922, nữ tu Joséfa xin với Chúa cho mình được liên hệ với thế giới của luyện ngục, và nữ tu đã ghi nhận Rất nhiều linh hồn đã xin ngài hy sinh và cầu nguyện cho. Một linh hồn nói Tôi đã sống trong tình trạng tội lỗi suốt bảy năm. Sau đó tôi bị đau ốm ba năm. Tôi từ chối không muốn xưng tội. Tự tay tôi đã xây lấy hỏa ngục cho tôi. Nhưng nhờ lời kinh và hy sinh của người mẹ, mà tôi ăn năn thống hối trở về với Chúa và sống trong tình trạng ơn thánh. Bây giờ tôi đang bị giam cầm trong luyện ngục. Tôi van xin ngài hãy cứu giúp tôi, để mau mau chóng ra khỏi tù ngục này. Hãy giúp đỡ các linh hồn nơi luyện ngục vì đó là một bổn phận bác ái. Nỡ lòng nào mà chúng ta không ra tay trợ giúp kẻ kêu cầu chúng ta. Nỡ lòng nào mà chúng ta lại lãnh đạm trước một người bạn đang chới với giữa dòng nước mà không tìm cách cứu vớt. Hãy giúp đỡ các linh hồn nơi luyện ngục vì đó là một bổn phận công bằng, vì tất cả chúng ta đều liên đới với nhau trong sự thiện cũng như trong sự ác, trong sự tốt cũng như trong sự xấu. Những người bị đền bù, rất có thể vì đời sống tầm thường, vì gương mù gương xấu của chúng ta mà vấp ngã, rất có thể vì yêu thương chúng ta mà các ngài đã sai lỗi điều nọ điều kia. Dù ít hay nhiều, chúng ta cũng liên đới chịu trách nhiệm về những hình phạt của các ngài và phải chia sẻ về những hình phạt ấy. Sau cùng, hãy giúp đỡ các linh hồn nơi luyện ngục vì đó là việc làm có lợi cho chúng ta. Cầu nguyện cho các ngài, thì các ngài cũng sẽ bầu cử cho chúng ta vì các ngài đã là những bạn hữu nghĩa thiết của Chúa. Tưởng nhớ đến các ngài, thì chắc hẳn mai ngày khi ở trong hoàn cảnh khổ đau như thế, Chúa cũng sẽ không để chúng ta chìm vào quên lãng. Cách đây không lâu cha sở vùng Bretagne là một mục tử tận tâm chăm sóc đoàn chiên của mình. Chẳng may ngài bị chết bất ngờ, và có tới hơn hai trăm linh mục khác đến đồng tế trong thánh lễ an táng của ngài. Ngài đã nói với các em nhỏ trong giờ giáo lý cuối cùng như sau Hãy cầu nguyện cho các linh mục. Nếu cha bị chết bất ngờ, chắc hẳn cha sẽ phải vào trong luyện ngục. Các em hãy hứa là sẽ cầu nguyện và cầu nguyện nhiều cho cha nhé. Và để kết luận, tôi xin đưa ra nơi đây ý kiến của một tờ báo Công giáo – Bạn nhớ cầu nguyện cho các linh hồn nơi luyện ngục và cũng thường xuyên nghĩ tới cái chết, sự phán xét, thiên đàng và hỏa ngục. Bạn còn có thể chuẩn bị cho ngày gặp gỡ mặt đối mặt với Thiên Chúa. Trong ngày đó, chỉ có hai con đường hoặc là đau khổ vĩnh viễn, hoặc là hạnh phúc muôn đời. Vậy chúng ta chọn con đường nào đây? 11. Họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa Một linh mục đang chuẩn bị cho trẻ em lãnh bí tích thêm sức, Ngài kiểm tra những điều các em học hỏi. Ngài hỏi một em trai “Thiên Chúa sẽ nói gì trong ngày phán xét chung với những người đã sống cuộc đời rất tốt lành ?” Không doÙ dự, chú bé đáp “Hãy lên trời sống với Ta”. Rồi linh mục hõi một em bé gái “Còn những người sống cuộc đời rất xấu xa thì sao ? Thiên Chúa sẽ nói gì với họ ?”. Cô bé đáp “Các người không được lên trời. Các người phải đi nơi khác”. Linh mục nói tiếp “Vậy Thiên Chúa sẽ nói gì với những người chưa tốt lành đủ để lên trời và cũng không xấu đến nỗi phải vào hỏa ngục ?” Một em bé nhanh nhảu giơ tay và trả lời theo kiểu mới bằng những lời rất đúng “Thiên Chúa sẽ nói “Ta sẽ nhìn các con”. Câu chuyện này làm nổi bật hai trong nhiều chân lý mà chúng ta cần nhắc lại trong ngày lễ các linh hồn hôm nay và trong cả trong tháng 11 này được dành riêng để kính nhớ các linh hồn còn trong luyện hgục. Chân lý thứ nhất là một số linh hồn chưa đủ tốt lành để lên trời và không xấu đến nỗi phải vào hỏa ngục. Vậy những người đó đi đâu khi họ qua đời ? Chỉ Giáo hội công giáo có câu trả lời, là họ vào luyện ngục. Chân lý khác được em bé gái diễn tả là đau khổ lớn nhất của luyện ngục là các linh hồn ở đó không được nhìn thấy Thiên Chúa, vì Thiên Chúa sẽ nhìn xem họ sau này, cho nên họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa về sau. Bạn không tìm thấy từ “luyện ngục” trong Thánh Kinh, nhưng bạn có thể tìm được ý tưởng về nó. Chính Chúa chúng ta muốn nói rằng một số tội được đền chuộc lại ở đời sau khi Ngài nói về tội không thể tha thứ vì từ chối kêu xin sự tha thứ Mt 12,32 Chúa Giêsu cũng nói về một ngục tù nơi linh hồn sẽ bị tống vào đó vì một số tôi. Họ sẽ chẳng được ra khỏi đó cho đến khi trả hết đồng xu cuối cùng Mt 5,26, thánh Phaolô nói về những người sống ở thế gian này không hoàn thiện, tuy nhiên họ sẽ được cứu độ như bằng lửa thử luyện ICor 3,13. Cựu ước cũng chỉ cho thấy luyện ngục. Giuda Macabê, nhà lãnh đạo Do thái, đã dâng lễ tế đền tội cho người đã chết “Cầu nguyện cho người đã chết là một ý tưởng lành thánh và đạo đức, để họ được tha thứ tội lỗi” Amac 12,46. Các linh hồn lành thánh không được lập công được nữa vì họ cũng không thể phạm tội nữa. Họ không thể giúp mình nhưng có thể giúp chúng ta. Họ đau khổ chính là vì họ không có thể ở cùng Thiên Chúa và nhìn xem Thiên Chúa. Họ chịu thứ đau khổ thanh tẩy có thể so sánh với đau khổ vì lửa. Nhưng họ vẫn vui mừng họ nắm chắc là họ sẽ được lên trời. Nhiêu linh hồn lành thánh này là những người thân yêu của chúng ta. Chúng ta có thể giúp đỡ họ bằng cầu nguyện, bằng việc lành và đặc biệt nhờ thánh lễ mà chúng ta cầu nguyện “Xin Chúa nhớ đến tổ tiên, thân thuộc chúng con và anh chị em tín hữu đang an nghỉ chờ ngày sống lại, xin cho tất cả được hưởng ánh sáng tôn nhan Chúa”. Xin Chúa chúc lành cho các bạn. 12. Thân xác và linh hồn – John W. Martens Chuyển ngữ Văn Hào SDB “Ta sẽ cho họ chỗi dậy trong ngày sau hết” Ga 6,40. Khi chúng ta chết, điều gì sẽ xảy đến? Đây là vấn nạn chúng ta thường đặt ra, đặc biệt đối với các Kitô hữu, khi mọi người đều hướng vọng về sự sống mai sau. Nhưng trước khi thân xác chúng ta được phục sinh trong ngày sau hết, trong thời gian chuyển tiếp, điều gì sẽ xảy đến ? Sau khi giã từ trần gian, chúng ta sẽ đi về đâu? Đây là điều thường gây ngộ nhận, nếu chúng ta không quán triệt giáo lý của Giáo hội. Hồi còn nhỏ tôi vẫn nghĩ về sự phục sinh mai sau và cho rằng sau khi chết, tôi sẽ được sống lại ngay lập tức trên quê trời cùng với tất cả những ai đã được quyền năng Chúa cho sống lại. Đây không phải là cái nhìn theo quan điểm Kitô giáo. Tuy nhiên, nhiều Kitô hữu vẫn ngộ nhận rằng sau khi chết, chúng ta sẽ sống trên quê trời, tuy không mang hình hài thân xác, nhưng linh hồn được giải thoát khỏi những ràng buộc của thể lý, và đó cũng là cuộc sống mà mọi người phải hướng vọng về. Cuộc sống mai hậu khi thân xác chết đi, là một điều rất khó giải thích, bởi vì những bản văn Kinh Thánh chỉ nói tới điều đó cách rời rạc và không nhất quán đưa ra một cắt nghĩa tổng thể. Về cuộc sống sau khi chết, Kinh Thánh chỉ mặc khải một cách tiệm tiến dần dần. Những người Do Thái cổ đại không đặt trọng tâm vào thế giới mai hậu, nhưng họ chỉ nhắm đến cuộc sống hiện sinh với những phần thưởng và chúc lành từ nơi Thiên Chúa. Đó là một cuộc sống trường thọ của ngày hôm nay, được đông con nhiều cháu, có dư dật của cải, cụ thể có nhiều hoa màu ruộng đất và đàn gia súc phong phú. Theo quan niệm cổ xưa, người chết sẽ xuống âm phủ, là nơi không phải để thưởng phạt, nhưng chỉ là nơi bóng tối của sự chết bao trùm khi chúng ta an giấc ngàn thu. Cựu ước nói rất ít về sự phục sinh. Mãi về sau này, trong các bản văn thuộc thế hệ sau lưu đầy khi dân Israel trở về kiến thiết lại Giêrusalem, sự phục sinh thân xác mới được nhắc tới. Vài thế kỷ trước công nguyên, dần dần xuất hiện sự phát triển quan niệm về số phận muôn đời của những người đã chết. Muộn thời sau này, người Do Thái mới có tư tưởng tuy không hệ thống hóa, nhưng nhấn mạnh rằng trọn vẹn con người chúng ta cả xác lẫn hồn sẽ được chỗi dậy trong ngày sau hết. Trong khi có khá ít những tư tưởng nói về cuộc sống con người sau cái chết để chờ đợi được phục sinh, thì tác giả sách Khôn ngoan, bộ sách đã được viết vào khoảng từ năm 30 đến năm 40 trước công nguyên tại Alexandria thành phố nói tiếng Hy Lạp, có đề cập đến linh hồn những người công chính’ đã chết. Tác giả viết “Linh hồn những người công chính ở trong tay Chúa và chẳng cực hình nào động tới được nữa. Bọn ngu si coi họ như đã chết rồi. Khi họ ra đi, chúng cho là họ gặp phải điều vô phúc. Lúc họ xa rời chúng ta, chúng ta tưởng là họ bi tiêu diệt. Nhưng thật ra họ đang hưởng bình an Kn 3 1-3. Quan niệm âm phủ không còn nữa, nhưng thay vào đó, là tình trạng con người thoát khỏi cực hình và được an bình. Toàn bộ trình thuật đưa ra một tiến trình phán xét sau khi chết, và nói về sự hiện diện tiếp mãi của Thiên Chúa. Nhưng bản văn cũng tiên báo một Vương quốc của Thiên Chúa trong tương lai, khi đó linh hồn người công chính sẽ thống trị muôn dân nước và xét xử muôn dân tộc, và Đức Chúa sẽ cai trị họ đến muôn đời Kn 3, 7-8. Đối với người Kitô hữu, Vương quốc tương lai này sẽ được khai mở khi Đức Giêsu trở lại, lúc đó tất cả mọi người, kẻ sống cũng như kẻ chết, sẽ được tham phần vào sự sống lại của Đức Kitô nơi thân xác họ. “Vì chúng ta đã nên một với Đức Kitô nhờ được chết như Người đã chết, thì chúng ta cũng sẽ nên một với Người, nhờ được sống lại như Người đã sống lại Rm 6,5. Đức Giêsu cũng nói về sứ mạng cứu thế của Ngài, khi chiến thắng tội lỗi và sự chết “ Quả thật, đây là ý muốn của Cha tôi, là những ai thấy Chúa Con và tin vào Người Con, sẽ có sự sống đời đời, và Ta sẽ cho họ chỗi dậy trong ngày sau hết” Ga. 6,39. Khi còn sống trong thân xác nơi trần thế, chúng ta đợi chờ cái chết chắc chắn sẽ đến, và hướng vọng về Vương quốc mai sau trong sự hiện diện của Thiên Chúa. Chúng ta cũng ngóng đợi sự viên thành của Vương quốc Nước Trời, khi hồn và xác được kết hiệp lại để sống muôn đời. Sách Giáo lý Công giáo, điều 1005 cũng cắt nghĩa theo lời dạy của Thánh Phaolô, với một viễn cảnh tràn trề hy vọng Để được chỗi dậy với Đức Kitô, chúng ta phải chết với Đức Kitô, tức là chúng ta phải xa lìa thân xác để được cư ngụ với Chúa’. Sự chia lìa tạm thời này chính là cái chết, khi thân xác tách rời khỏi linh hồn. Linh hồn sẽ được kết hiệp lại với thân xác trong ngày kẻ chết sống lại. Vì thế, cùng với linh hồn những người công chính đã ra đi trước chúng ta, các Kitô hữu sẽ chờ đợi Vương quốc của Thiên Chúa, nơi đó mọi sự được viên toàn, và Thiên Chúa sẽ là tất cả trong mọi sự. 13. Hãy nhớ đến công đức của các ngài – Tu sĩ Jos. Vinc. Ngọc Biển, SSP Tại đất nước của chúng ta hay trên thế giới, có lẽ không ai lại không biết đến cây chuối. Có nhiều loại chuối, nhưng các loại chuối đều giống nhau ở một điểm là chúng chỉ sản sinh ra một buồng chuối duy nhất, không bao giờ có buồng thứ hai. Lúc mới lớn, chúng to cao, thân vạm vỡ, lá xanh tươi. Nhưng khi chúng bắt đầu có buồng, thì cũng là lúc chúng chuẩn bị héo tàn xơ xác với thời gian, và, khi buồng chuẩn bị chín, cây chuối mẹ sẽ ủ rũ, héo úa như muốn dồn hết sức lực còn sót lại để nuôi chúng. Sự sống của nó kết thúc khi buồng chuối đã chín hẳn. Như vậy, trong quá trình sinh trưởng của buồng, cây chuối mẹ phải hy sinh những tinh túy nhất của mình cho buồng chuối. Có thế, chúng ta mới được tận hưởng những trái chuối to, thơm ngon và bổ dưỡng…. Cây chuối là biểu tượng cho một tình yêu cao thượng. Nhìn cây chuối đang mang buồng, chúng ta suy nghĩ đến sự quảng đại, hy sinh đến quên mình của những bậc tiền nhân chúng ta. Hôm nay, cùng với Giáo Hội, chúng ta cử hành thánh lễ Cầu Hồn để cầu nguyện cho các linh hồn là những ông bà, cha mẹ, tổ tiên, những người thân yêu, ân nhân, thân nhân, bạn hữu…. của chúng ta đã ra đi về với Chúa. Lý do cần cầu nguyện cho các linh hồn Cầu nguyện cho các ngài là bổn phận, là sống tinh thần hiệp thông, là thể hiện đức ái và nhất là biểu lộ niềm tin của chúng ta vào Thiên Chúa. Như vậy, tháng 11 đối với đạo Công Giáo được gọi là tháng báo hiếu tổ tiên. Vì thế, những người con, cháu, chắt hãy nhớ công ơn trời bể, nhất là những lời dạy dỗ, bảo ban của các ngài mà khắc cốt nghi tâm “Hỡi con, lệnh cha con truyền, hãy lo tuân giữ, lời mẹ con dạy, chớ bỏ ngoài tai […], vì huấn lệnh là ngọn đèn, lời dạy dỗ là ánh sáng, và lời quở trách bảo ban là đường dẫn tới sự sống” x. Cn 6, Thật vậy, cả cuộc đời của các ngài đã sống hết mình vì con cái. Đôi khi vì hạnh phúc của con mà người mẹ phải chấp nhận tần tảo ngược xuôi, ăn bữa nay, lo bữa mai, nhưng nhất quyết không để con mình phải đói, phải rách, hay bị thất học…. Có những người mẹ đã cống hiến luôn cả một phần cơ phận của mình để có tiền lo cho con cái ăn học hay chữa bệnh… “Nuôi con buôn tảo bán tần, chỉ mong con lớn nên thân với đời. Những khi trái nắng trở trời, con đau làm mẹ đứng ngồi không yên. Trọn đời vất vả triền miên, chạy lo bát gạo đồng tiền nuôi con”. Hoặc có những người cha đã phải thức khua dạy sớm, làm lụng vất vả để nuôi sống gia đình và lo cho con cái bằng bạn bằng bè “Cha tôi tuy đã già rồi, nhưng còn làm lụng để nuôi cả nhà. Sớm hôm vừa dấy tiếng gà, cha tôi đã dạy để ra đi làm”. Đó là về vật chất, còn về tinh thần thì sao? Chắc hẳn không có người cha, người mẹ nào lại muốn con cái mình sinh ra hư hỏng, trái lại, các ngài luôn mong muốn cho chúng càng thêm tuổi, càng thêm khôn ngoan, đạo hạnh…. Tuy nhiên, vì sự lêu lổng, tính ham chơi và tuổi đời bồng bột, nên đã biết bao lần con cái làm cho cha mẹ phải tủi nhục đắng cay! Đấy là chưa kể đến những đứa con bất hiếu đến độ đuổi cha mẹ ra khỏi nhà, chửi mắng các ngài chỉ vì không đáp ứng những nhu cầu bất chính của chúng! Quả đúng là “Cha mẹ thương con như biển hồ lai láng, con thương cha mẹ tính tháng tính ngày”. Nhiều khi con cái đâu có hiểu được rằng chúng được thành đạt, nên người; được cơm no áo ấm; được nở mặt nở mày với những nụ cười rạng rỡ; được nhiều người thương mến, kính trọng…. Có bằng này chức kia lại là kết quả của cha mẹ một nắng hai xương, dầm mưa dãi nắng; cầy sâu cuốc bẫm; suốt ngày bán mặt cho đất, bán lưng cho trời để dành dụm được chút ít dư dật, hầu lo cho con cái được ấm no, hạnh phúc. Nói chung “Công cha như núi thái sơn, nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra”. Đây là gia tài quý báu mà các ngài truyền lại cho con cháu. Thật vậy, công đức, gương sáng của các ngài đã để lại cho chúng ta là cả một gia tài vô giá, vì thế,“Uống nước phải nhớ nguồn, ăn quả phải nhớ kẻ trồng cây”, vì “Mẹ cha vất vả nuôi mình. từ khi trứng nước công trình biết bao. Làm con phải nhớ công lao, cho tròn chữ hiếu mới là đạo con”. Nhưng có lẽ món quà quý giá nhất giờ đây mà các ngài mong muốn nơi chúng ta, đó là dâng thánh lễ và lời cầu nguyện. Cầu nguyện là món quà quý giá nhất dành cho các linh hồn Vì thế, niềm tin Kitô Giáo cho chúng ta một niềm hy vọng rằng chết không phải là hết, nhưng là một cuộc đi về Quê Thật, vì “Sinh ký, tử quy”. Chính trong niềm tin này mà chúng ta có một sự liên hệ mật thiết giữa người sống và người chết cách nhiệm mầu, nhưng sống động. Thế nên, khi đứng trước hay nhìn thấy các nấm mồ của người thân yêu đã quá cố, chúng ta không thể quên công ơn của các ngài, vì “Mồ thật chôn các người chết là trái tim của người sống” Tục ngữ. Sự sống và tinh thần của các bậc tổ tiên được lưu truyền hậu thế mãi mãi nơi những khuôn mặt, trái tim của hậu sinh là chúng ta. Vì thế, Mẹ Giáo Hội mời gọi chúng ta hãy tưởng nhớ công ơn của các ngài để noi gương và nhất là dâng lời cầu nguyện, hy sinh cho các linh hồn. Đây là cách báo hiếu tốt nhất dành cho người quá cố và đây cũng là niềm tin của mỗi chúng ta. Trong Kinh Thánh, chúng ta vẫn tuyên xưng “Tôi biết rằng ấng bênh vực tôi vẫn sống, và sau cùng, Người sẽ đứng lên trên cõi đất. Sau khi da tôi đây bị tiêu huỷ, thì với tấm thân, tôi sẽ được nhìn ngắm Thiên Chúa” G 19,25-26. Xác tín này cũng chính là niềm tin của Mattha trước cái chết của Lazarô, vì thế, cô được Đức Giêsu mặc khải về sự sống sau cái chết nơi những người tin “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống. Ai sống và tin vào Thầy, sẽ không bao giờ phải chết” Ga 11, 25-26. Lời hứa về sự sống đời đời còn được Đức Giêsu mặc khải nhiều lần khác nhau “Ý của ấng đã sai tôi là tất cả những kẻ Người đã ban cho tôi, tôi sẽ không để mất một ai, nhưng sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết” Ga 6, 39. Lúc khác Ngài khẳng định mạnh mẽ hơn Ai “tin vào người Con, thì được sống muôn đời” Ga 6, 40. Hay “Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết” Ga 6, 54. Sứ điệp ngày lễ Mỗi khi tháng 11 đến, ngoài việc cầu nguyện cho các linh hồn, Giáo Hội mời gọi chúng ta ý thức rằng “Nay người, mai ta”. Sự ra đi của tiền nhân là dấu chỉ báo trước cho chúng ta biết, một mai chúng ta cũng sẽ lần lượt ra đi như các ngài để trở về thế giới bên kia, vì “Mọi sự dầu hay, hay dở, đều không chắc chắn, chỉ sự chết là chắc chắn sẽ xảy đến” thánh Augúttinô. Tuy nhiên, thông điệp được sáng lên từ những nấm mồ tưởng chừng như bất động kia lại rất sống động khi nó chuyển tải cho chúng ta những chân lý như cuộc đời này thật hữu hạn. Sẽ có ngày tôi cũng phải từ giã mọi người để ra đi về với Chúa và được chôn cất trong ba tấc đất nhỏ bé kia. Thân xác chúng ta sẽ trở về với cát bụi, và mọi cố gắng đến đây chấm dứt, chỉ còn biết cậy trông lòng thương xót của Thiên Chúa, lòng nhân ái của mọi người bằng đời sống hy sinh và cầu nguyện mà thôi. Bên cạch đó, từ mơi nấm mồ toát lên lời mời gọi chúng ta hãy sống lành để được chết thánh; hãy yêu thương để được yêu thương; hãy tha thứ để được thứ tha; hãy sống như ngày mai sẽ chết, để ngay từ giây phút này sám hối ăn năn, đây chính là tinh thần tỉnh thức trong ân sủng. Lạy Chúa Giêsu, chính Chúa là sự sống đời đời, xin ban cho các linh hồn được an nghỉ trong tình thương của Chúa và xin cho chúng con sống tốt trong cuộc sóng hiện tại, để mai ngày được cùng tổ tiên chúng con ca tụng Chúa trên Nước Trời. Amen. 14. Luyện ngục CẦU NGUYỆN CHO NHỮNG NGƯỜI ĐÃ QUA ĐỜI Vấn đề chúng ta tìm hiểu hôm nay, đó là có những sự gì xảy ra cho các linh hồn nơi luyện ngục? Hai chữ luyện ngục mà thôi cũng đã đủ cho chúng ta thấy đó là nơi đau khổ, đền bù và thanh luyện. Vào ngày phán xét, chúng ta sẽ thấy mình còn xa cách với lý tưởng mà Chúa đã ấn định. Mặc dù linh hồn ra đi trong tình trạng ơn thánh, nhưng còn biết bao nhiêu những sau lỗi, biết bao nhiêu những tỳ vết khiến chúng ta phải kêu lên Lạy Chúa, con không thể nào trở về cùng Chúa khi chưa xóa bỏ hết những hoen ố của biết bao nhiêu lần vấp phạm. Có lẽ ngay trong lúc này, chúng ta cũng cảm thấy Chưa bao giờ tôi đã lên tới đỉnh trọn lành, chưa bao giờ tôi được thỏa mãn với chính bản thân mình? Làm sao chúng ta có thể hoàn toàn vâng phục thánh ý Chúa trong cuộc sống hiện tại như Đức Kitô ngày xưa? Thì đây, luyện ngục sẽ là nơi để chúng ta kết thúc những công trình còn dang dở. Lửa thanh luyện càng bừng cháy để thiêu đốt những bụi bậm, những rác rưởi, những cặn bã, thì hình ảnh Chúa càng rực sáng trong tâm hồn chúng ta. Và khi hình ảnh ấy đã trở nên chói lòa, rực rỡ và huy hoàng, thì luyện ngục sẽ chấm dứt và chúng ta sẽ được bước vào niềm hạnh phúc thiên đàng. Nếu quan niệm như thế, chúng ta sẽ cảm thấy nông cạn và hời hột khi cho rằng Hình phạt luyện ngục thì không xứng đáng với lòng nhân từ và thương xót của Chúa. Ngài sẽ tha thứ cho chúng ta một cách nhưng không, mà chẳng cần phải đều bù thanh luyện chi cả. Nếu suy nghĩ một chút, chúng ta sẽ thấy không thể nào chấp nhận được quan niệm ấy, bởi vì nó đi ngược lại với sự thánh thiện và công thẳng tuyệt đối của Chúa. Thánh vịnh 118 đã bảo Thiên Chúa thật công bằng và phán quyết của Ngài thật ngay thẳng. Chính Chúa Giêsu cũng đả xác quyết Ngươi sẽ không ra khỏi đó cho đến khi trả xong đồng xu cuối cùng. Lòng thương xót và sự công bằng của Thiên Chúa thoạt xem ra như tương phản lẫn nhau, nhưng lại vô cùng hòa hợp với nhau qua tín điều về luyện ngục. Thực vậy, trong khi sự công bằng đòi phải đền bù và thanh luyện, thì lòng thương xót lại đưa ra những phương tiện, những cách thức giúp đỡ để được rút ngắn thời gian đau khổ. Từ đó, chúng ta thấy được hai khía cạnh của luyện ngục, đó là đau khổ và an ủi. Bởi vì hình phạt ở luyện ngục cũng giống như hình phạt ở hỏa ngục, nhưng chỉ khác một điều, đó là ở luyện ngục thì chỉ tạm thời, còn ở hỏa ngục thì vĩnh viễn. Và hình phạt đau khổ nhất chính là phải xa lìa Thiên Chúa vào giữa lúc chúng ta nhận biết Ngài là ai và đang cố gắng tiến đến với Ngài. Tuy nhiên, không phải chỉ có thế. Mặc dù là một nơi đau khổ và thanh luyện, nhưng luyện ngục không phải là hỏa ngục, trái lại luyện ngục chính là lối dẫn vào thiên đàng. Những linh hồn nơi luyện ngục chắc chắn không phải rơi vào tay ma quỉ, nhưng sẽ được nghỉ yên trong Chúa. Ơn cứu rỗi của họ đã được bảo đảm và họ sẽ không bị kết án. Đó là khía cảnh đầy vui mừng và an ủi của luyện ngục. Vậy luyện ngục là gì? Tôi xin thưa Luyện ngục là hỏa ngục, nhưng ở đó có niềm vui. Hay nói một các khác Luyện ngục là thiên đàng, nhưng ở đó có đau khổ. Họ đau khổ vì hiện tại còn đang phải tạm thời xa cách Chúa. Nhưng đồng thời họ vui mừng vì một ngày kia sẽ được nhìn ngắm tôn nhan Chúa, mặt đối mặt. Niềm tin vào luyện ngục sẽ đem lại một sự an ủi và khích lệ, khiến chúng ta không bao giờ phải tuyệt vọng. Thế nhưng tín điều này còn là một lời cảnh cáo gửi đến mổi người chúng ta đang sống trong cuộc sống này Đừng bình thản trong tội lỗi. Đồng thời cũng là một thôi thúc Đừng thất vọng trước những sai lỗi vấp phạm của mình. Sau cùng, hãy thêm lời cầu nguyện cho các linh hồn nơi luyện ngục, bởi vì như sách Macabêô đã xác quyết Cầu nguyện cho những người đã chết để họ được giải thoát khỏi mọi tội lỗi là một việc làm thánh thiện và có giá trị cứu rỗi. 15. Mầu Nhiệm Các Thánh Cùng Thôngcông _ Lm Đan Vinh – Hhtm NGUỒN GỐC LỄ CẦU CHO CÁC LINH HỒN – Theo lịch sử Hội thánh Thánh ODILO 962- 1048 là viện phụ của đan viện Cluny trong đế quốc Germany, là một tu sĩ rất có lòng đạo đức. Ngài luôn tưởng nhớ cầu nguyện kèm ăn chay hãm mình và dâng lễ cầu nguyện cho các linh hồn đã qua đời. Một hôm, một đan sĩ Dòng của ngài đi hành hương Đất thánh. Trên đường trở về, tàu chở vị đan sĩ đã bị bão đánh giạt vào một hòn đảo, và tại đây đan sĩ đã gặp gỡ và trao đổi với một vị ẩn sĩ. Trong buổi trò chuyện, ẩn sĩ cho biết “Trên đảo này có nhiều hang lửa, trong hang có nhiều linh hồn người chết thường bị hành hạ, đánh đập đau đớn. Có lần tôi nghe được mấy tên quỉ phàn nàn với nhau về Viện phụ Odilo và các đan sĩ Dòng Cluny mỗi ngày đều giải thoát được một số linh hồn được ra khỏi hang lửa nói trên. Vì thế, xin thầy hãy về nói với cha Odilo và các anh em trong Dòng tiếp tục cứu giúp các linh hồn đang chịu đau khổ. Việc này làm cho các thánh trên trời vui mừng và cũng làm cho ma quỷ trong hỏa ngục phải buồn sầu tức giận”. Sau khi nghe tu sĩ kể lại sự việc, cha Odilo đã chọn ngày 2 tháng 11 hằng năm để cử hành lễ cầu hồn trong đan viện Cluny của ngài. Về sau lễ cầu hồn này đã truyền sang nước Pháp, và Đức Giáo hoàng Gio-an 14 đã thiết lập lễ Cầu cho các linh hồn trong Hội Thánh Công Giáo Rô-ma từ giữa thế kỷ 11. – Giáo lý Hội Thánh Công giáo do Đức Thánh cha Gio-an Phao-lô 2 ban hành năm 1992 có 3 số nói về luyện ngục như sau Số 1030 Cần có Luyện ngục “Những ai chết trong ân sủng và ân nghĩa của Thiên Chúa, nhưng chưa được thanh tẩy cách trọn vẹn, thì tuy được bảo đảm về ơn cứu độ muôn đời của mình, vẫn phải chịu một sự thanh luyện sau khi chết, hòng đạt được sự thánh thiện cần thiết để bước vào niềm vui thiên đàng”. Số 1031 Luyện ngục để thanh tẩy “Giáo Hội gọi là luyện ngục là sự thanh luyện sau cùng này của các người được chọn, hoàn toàn khác với hình phạt của những kẻ bị án phạt. Giáo Hội đã trình bày giáo lý của đức tin về Luyện ngục, nhất là tại các Công đồng Florentia xem DS 1304 và Trentô xem DS 1820; 1580. Dựa vào một số bản văn của Thánh Kinh Chẳng hạn 1 Cr 3,15; 1 Pr 1,7, truyền thống của Giáo Hội nói đến một thứ lửa thanh luyện “Đối với một số những lỗi lầm nhẹ, ta phải tin có một thứ lửa thanh tẩy trước ngày Phán xét, theo như những gì mà Đấng là Chân lý đã dạy khi Ngài nói rằng nếu ai nói lời phạm thánh chống lại Chúa Thánh Thần, thì sẽ không được tha cả đời này lẫn ở đời sau” Mt 12,31. Theo lời quyết đoán này, chúng ta có thể hiểu rằng một số lỗi lầm có thể được tha ở đời này, nhưng một số lỗi khác thì được tha ở đời sau” Th. Gregoriô Cả, Dial. 4,39. Số 1032 Người sống cứu người chết Giáo huấn này cũng dựa vào cách cầu nguyện cho kẻ chết, như được nói đến trong Thánh Kinh “Đó là lý do tại sao ông Giuđa Macabê đã truyền phải dâng hy lễ đền tội này cho các người đã chết, để họ được giải thoát khỏi tội lỗi của mình” x. 2 Mcb 12,46. – Ngày 10 tháng 8 năm 1915 Trong một Tông hiến, Tòa thánh cho các linh mục được dâng 3 lễ vào ngày lễ Cầu hồn 1 cầu như ý người xin, được lấy bổng lễ, 1 cầu theo ý ĐTC không bổng và 1 cầu cho các linh hồn không bổng. Giáo hội cũng xác định dành trọn tháng 11 dành để cầu cho các linh hồn Luyện ngục. – Ngày 1 tháng 11 năm 1967, ĐTC Phaolô 6, trong Tông huấn Ân xá đã ban một đại xá với điều kiện thường lệ xưng tội, rước lễ, cầu theo ý ĐGH cho những ai “viếng nhà thờ vào Chúa nhật trước hoặc sau, hoặc chính lễ Các Thánh số 67, và những ai viếng nghĩa địa trong 8 ngày đầu tháng 11 để cầu cho các linh hồn số 13. GIÁO LÝ VỀ MỘT HỘI THÁNH BA TÌNH TRẠNG Chúa Giê-su thiết lập Nước Trời là Hội Thánh. Hội Thánh ấy hiện nay gồm có ba tình trạng Một là Hội Thánh “Lữ Hành”, hai là Hội Thánh “Vinh Thắng”, ba là Hội Thánh “Đau Khổ” như sau – Hội Thánh “Lữ Hành” trần gian Gồm các tín hữu đang còn sống, đang bước đi trên con đường của Chúa Giê-su. Như Dân Ítraen xưa, Hội thánh sẽ phải vượt qua sa mạc trần gian tiến về Đất Hứa Nước Trời là Thiên Đàng đời sau. Các tín hữu trong Hội thánh lữ hành trần gian còn phải chiến đấu với ba thù là ma quỷ, thế gian và xác thịt của mình. Họ được Chúa ban cho 2 thứ bánh thiêng liêng là Bánh Lời Chúa và Bánh Thánh Thể. Nhờ đó họ sẽ đủ sức vượt qua sa mạc trần gian để tiến về miền Đất Hứa là Thiên Đàng đời sau. – Hội Thánh “Vinh Thắng” trên trời Gồm các tín hữu đã qua đời trong niềm tin cậy vào Chúa. Khi còn sống ở trần gian, các ngài đã thực hành Hiến Chương Nước Trời là Tám Mối Phúc Thật của Chúa Giê-su, nên ngày nay các ngài đang được hưởng hạnh phúc Thiên Đàng với Chúa. – Hội Thánh “Đau Khổ” thanh luyện Gồm các tín hữu tuy đi theo con đường của Chúa Giê-su, nhưng khi chết vẫn đang ở trong tình trạng còn nhiều sai lỗi, chưa xứng đáng được vào Nước Trời. Họ cần tiếp tục chịu đau khổ trong ngọn lửa tin yêu để được thanh luyện sạch mọi vết nhơ. Rồi khi hoàn toàn trở nên thánh thiện, họ sẽ được về hưởng hạnh phúc Thiên Đàng. TÍN ĐIỀU CÁC THÁNH THÔNG CÔNG Ngọai trừ các người theo ma quỷ phải sa hỏa ngục để chịu hình phạt lìa xa Chúa đời đời, còn các tín hữu tin vào Chúa Giê-su dù còn sống hay đã qua đời, dù đã được lên trời hay đang được thanh luyện cũng đều được thông hiệp với ơn cứu độ của Chúa Giê-su và cầu nguyện cho nhau. Đó là mầu nhiệm các thánh cùng thông công Các tín hữu còn sống có thể giúp các linh hồn đã qua đời bằng việc viếng nhà thờ hay Đất Thánh và đọc kinh cầu nguyện, xưng tội rước lễ và cầu nguyện hiệp thông với Đức Giáo Hòang để được nhận các ân xá trong dịp đầu tháng 11; Nhất là có thể xin lễ và hiệp dâng thánh lễ cầu nguyện cho các linh hồn, làm các việc lành phúc đức như chia sẻ bác ái phục vụ với ý chỉ cầu nguyện đền tội thay cho các linh hồn ông bà cha mẹ đang ở trong chốn luyện hình. Nhờ đó các linh hồn sẽ được ơn Chúa chiếu soi, được thêm lòng yêu mến Chúa để được tha thứ tội lỗi như lời Chúa “Yêu nhiều sẽ được tha nhiều”. Khi các linh hồn được nên thanh sạch thánh thiện hòan tòan thì sẽ được Chúa đưa vào hưởng hạnh phúc Thiên Đàng. Bấy giờ các ngài sẽ không quên cầu bầu cùng Chúa xuống muôn ơn lành cho con cháu là chúng ta trên trần gian. Riêng khái niệm về Lâm-bô Lâm bô là khái niệm của thánh Albertô Cả 1200-1280, nói về một nơi dành cho các linh hồn trẻ em chết khi chưa được lãnh bí tích Rửa tội. Tuy chúng không bị phạt nhưng cũng không được lên thiên đàng vì chưa được rửa tội. Về sau khái niệm này ít được đề cập đến. Gần đây Ủy ban thần học quốc tế thuộc bộ Giáo Lý Đức Tin đã công bố một tài liệu mang tên “Niềm hy vọng ơn cứu rỗi dành cho các trẻ em chết mà không được rửa tội”. Trong đó Ủy Ban cho rằng “Giả thuyết về Lâm-bô” không có nền tảng rõ ràng trong Mặc Khải. Theo ủy ban, có nhiều lý do rút ra từ thần học và phụng vụ cho phép chúng ta tin tưởng và hy vọng rằng các em chết trước khi được rửa tội cũng được hưởng nhan thánh Chúa, vì “Thiên Chúa muốn cho hết mọi người đều được hưởng ơn cứu độ”. Tuy vậy, Ủy ban cũng khẳng định bí tích rửa tội vẫn là điều kiện cần thiết để được hưởng ơn cứu rỗi của Đức Giê-su như lời Chúa phán “Không ai có thể vào Nước Thiên Chúa, nếu không sinh ra bởi nước và Thần Khí” Ga 3,5. Tóm lại Hội Thánh tín thác các em chết khi chưa chịu phép rửa tội cho lòng thương xót của Chúa, và hy vọng nhờ đức tin của Hội Thánh, các em cũng được hưởng ơn cứu độ x. GLHTCG số 1261. PHẢI “BIẾT CHẾT” ĐỂ “BIẾT SỐNG” – Không thích nói đến cái chết Nhiều người nghĩ rằng không nói đến sự chết thì mình sẽ không phải chết. Nhà tỷ phú Mỹ WILLIAM RANDOPH HEARST, chủ nhân của nhiều tờ báo và phim trường ở Holywood hồi trước thế chiến thứ hai, đã ra lệnh cấm các nhân viên của mình nhắc đến từ ngữ “chết” trước mặt ông. Những ai lỡ miệng nói ra liền bị đuổi việc. Ông là người thông minh, tài giỏi, thành công, nhưng lại không dám đối diện với sự thật phũ phàng là sự chết! Rồi cuối cùng Hearst cũng bị chết bất đắc kỳ tử, để lại một toà lâu đài rộng lớn, hiện nay trở thành một điểm du lịch nổi tiếng ở bang California Hoa Kỳ. – “Sinh ký tử quy” Sống gửi thác về Nhiều người khi lớn tuổi liền nghĩ đến việc hậu sự và lo chuẩn bị cho cái chết của mình, bằng việc mua đất nghĩa trang, chọn nhà quàn, mua sẵn ván làm hòm để trong nhà. Họ còn viết chúc thư về những điều con cháu phải làm để lo việc ma chay cho họ Khi chết phải cho họ chiếc áo này, đeo vòng ngọc kia, cầm cái quạt nọ. Lại còn dặn dò phải bỏ vào quan tài dụng cụ này hay vòng vàng kia để sử dụng ở thế giới bên kia, giống như chuẩn bị hành lý cho một chuyến đi xa để về với ông bà tổ tiên. – Chết là bắt đầu một cuộc sống mới Đối với những kẻ không tin có Thiên Chúa và đời sau thì chết đi là hết! Nếu quả thực như thế thì cái chết thật đáng sợ ! Vì nó là đặt dấu chấm hết tất cả những ước mơ của đời người “Con người là bụi cát lại trở về với cát bụi!” Nhưng đức tin Ki-tô giáo dạy cho biết chết không phải là hết. Nó chỉ là khởi đầu của một cuộc sống mới vĩnh hằng. Sau cái chết mỗi người sẽ phải trả lẽ những gì đã làm khi còn sống trước tòa Chúa phán xét. Nếu chúng ta đã sống trong ân nghĩa của Chúa thì giờ chết sẽ là sự trở về ngôi nhà của mình. “Sinh ký tử quy” Chúng ta sẽ được trở về thiên đàng, là nhà của Thiên Chúa Cha, Đấng đã dựng nên loài người chúng ta. Ở đây không còn nước mắt đau khổ, nhưng chỉ có niềm vui và hạnh phúc viên mãn như sách Khải Huyền đã viết “Thiên Chúa sẽ lau sạch nước mắt họ. Sẽ không còn sự chết, cũng chẳng còn tang tóc, khóc than và đau khổ nữa, vì những điều cũ đã biến mất” x. Kh 21,4. – Đền tội khi sống lúc chết Dầu vậy trong cuộc sống, ít nhiều lần các tín hữu chúng ta cũng đã để cho những dục vọng làm chủ bản thân mình, khiến chúng ta không vâng lời Chúa không làm theo thánh ý Thiên Chúa. Đó là ta đã phạm tội hay mắc phải các thói hư. Khi chúng ta còn sống thì các tai nạn, bệnh tật và các điều trái ý cực lòng gặp phải sẽ giúp chúng ta đền tội đã phạm. Rồi sau khi qua đời chúng ta còn tiếp tục được thanh luyện trong lửa tin yêu gọi là tình trạng luyện hình. LỜI CẦU – Lạy Chúa Giê-su. Mỗi lần đối diện với cái chết gần kề, con cảm thấy run sợ vì con chưa sẵn sàng để gặp Chúa. Trong suốt cuộc đời, con đã lo toan rất nhiều thứ như lo tìm kiếm tiền tài, danh vọng, chức quyền trần gian… Còn điều quan trọng chính yếu là chuẩn bị cho giờ chết sẽ đến thì con lại chưa quan tâm đúng mức ! Con thật dại khờ khi nghĩ rằng mình sẽ có đủ thời gian chuẩn bị trước khi chết. Nhưng lời Chúa đã dạy “Con Người sẽ đến như kẻ trộm” và đòi con phải luôn tỉnh thức bằng thái độ sẵn sàng. Một ngày nào đó con không ngờ trước, con sẽ phải ra trình diện trước mặt Chúa, không biết bấy giờ Chúa có nhận ra con không, hay Chúa sẽ bảo con “Ta không hề biết các ngươi. Hãy xéo đi cho khuất mắt Ta, hỡi bọn làm điều gian ác!” Mt 7,23. – Lạy Chúa Giê-su. Xin ban cho con ơn khôn ngoan của Thánh Thần để con sống trọn vẹn từng giây phút hiện tại Chúa ban trong ơn nghĩa Chúa, để ngày nào đó khi giờ chết đến, con sẽ ra trình diện trước mặt Chúa không phải như hai người xa lạ, nhưng như người rất thân quen. Khi ấy Chúa sẽ gọi con bằng một cái tên trìu mến và giang rộng vòng tay đón con vào hưởng hạnh phúc Nước Trời đời đời “Hỡi kẻ được Cha Ta chúc phúc, hãy vào hưởng Vương Quốc’ dọn sẵn cho các con từ thuở tạo thiên lập địa” x. Mt 25,34.- Amen.
bài đọc lễ cầu cho các linh hồn