🌬️ Ngôn Ngữ Sài Gòn Xưa
Giáo án môn Ngữ văn 7 - Hướng dẫn đọc thêm: Sài gòn tôi yêu. I. MỤC TIÊU. 1. Kiến thức. - Những nét đẹp riêng của thành phố Sài Gòn: thiên nhiên, khí hậu, cảnh quan và phong cách con người. - Nghệ thuật biểu cảm nồng nhiệt, chân thành của tác giả. 2.
- Bát san tuyệt mạng, giao chiến, cô thần quả tú… - Đổng công trạch nhựt yếu lãm (bản dịch của bổn Đổng Công) - Xem ngày giờ tốt xấu cho tất cả mọi sự - Xem bệnh qua khỏi hay không? - Coi về nghệ nghiệp - Coi về bát bại - Dùng thiên can và địa chi để biết tốt xấu - Phép xem sanh trai hay gái - Xem giờ sanh để biết sang hèn
Giai đoạn 2007-2018, chính là khoảng thời gian "mài gươm" của ông Thành, bằng rất nhiều những động thái khác nhau cùng với "ê-kíp" của ông, chờ thời khắc trở lại. Và ông đã toại nguyện với Sài Gòn FC mùa giải 2020, sau mấy đợt binh biến. "Loạn thế" sinh anh
1. Dẫn luận ngữ điệu Trung Quốc. Tài liệu dẫn luận ngôn ngữ China là một trong số những tài liệu cơ bản của sinh viên khi tham gia học ngữ điệu Trung Quốc. Đây cũng là tư liệu mà các bạn sinh viên chuyên ngành ngôn từ Trung hoàn toàn có thể tìm hiểu thêm khi viết báo
Ngôn ngữ khác Tìm. Live Live Tìm. Trước Kế tiếp. Tin mới. Việt Nam. Chung cư cũ ở Sài Gòn 28/03/2017 Embed share. Chung cư cũ ở Sài Gòn. nhưng mà nó có cái quy củ của cái nét Sài Gòn mình hồi xưa tới giờ. Nó cũng vui vui, cũng có những cái thú vị của chung cư cũ".
Trong cuốn "Sài Gòn năm xưa", cụ Vương đã dày công tra cứu hàng loạt sách báo Pháp lẫn Việt. Ngoài ra, ông đi thu thập dữ liệu từ dân gian nên rút ra cách lý giải khác. Theo Vương Hồng Sển, khi người Hoa rời Cù lao Phố (Biên Hòa) vào năm 1773, đã tụ về vùng đất mới Chợ Lớn ngày nay.
Chợ có 1.437 sạp, 6.000 tiểu thương, 11 doanh nghiệp, với 4 cửa chính và 12 cửa phụ, ước tính đón 10.000 lượt khách mỗi ngày. Giữa những dòng khách vào chợ tấp nập, có thể bắt gặp "ngôi làng toàn cầu thu nhỏ" của mọi ngôn ngữ, màu da, quốc tịch trên thế giới
Những người kém may mắn hơn khi già, hết tuổi làm việc, họ tụ tập lại, góp tiền mua những căn nhà để về ở chung. Từ đó hình thành những căn nhà dành riêng cho nhóm phụ nữ thề không bao giờ lấy chồng. "Sài Gòn xưa có Phổ Thắng Đường, Nhất Đắc Đường, Hợp
Tiền Bạc Bạc Tiền (NXB Sài Gòn 1926) - Hồ Biểu Chánh, 154 Trang 13/04/2021; Nghìn Xưa Văn Hiến Tập 1 (NXB Kim Đồng 1975) - Trần Quốc Vượng, 154 Trang 26/11/2020; Tài Liệu Bách Khoa Đại Từ Điển-Sử Học (NXB Quốc Học Thư Xã 1943) - Phạm Quỳnh, 36 Trang 21/12/2021
5YoQ8. Sang đến thời kỳ “một trăm năm đô hộ giặc Tây”. Việt Nam nói chung và Sài Gòn nói riêng đã trở thành thuộc địa của Pháp. Cũng vì thế, tiếng Pháp đã có ảnh hưởng sâu rộng đến đời sống văn hóa, xã hội của người Việt. Tiếng Pháp được sử dụng trong các văn bản, giấy tờ của Chính phủ Bảo hộ và trong giảng dạy ở nhà trường, bên cạnh đó là các loại sách báo thâm nhập đời sống thường ngày của người dân. Chữ Quốc ngữ, vốn được tạo ra bởi một số nhà truyền giáo Tây phương, đặc biệt là linh mục Alexandre de Rhodes tác giả cuốn Từ điển Việt-Bồ-La năm 1651, với mục đích dùng ký tự Latinh làm nền tảng cho tiếng Việt. “Latinh hóa” chữ Việt ngày càng được phổ biến để trở thành Quốc ngữ, chịu ảnh hưởng bởi những thuật ngữ, từ ngữ mới của ngôn ngữ Tây phương, nổi bật nhất là văn hóa Pháp. Khi chiếm được ba tỉnh Nam Bộ, người Pháp đã nắm trong tay một công cụ vô cùng hữu hiệu để truyền bá văn hoá đồng thời chuyển văn hoá Nho giáo sang văn hoá Phương Tây. Tờ Gia Định Báo là tờ báo đầu tiên được phát hành bằng chữ Quốc ngữ vào năm 1865, khẳng định sự phát triển và xu hướng của chữ Quốc Ngữ như là chữ viết chính thức của nước Việt Nam sau này. Linh mục Alexandre de Rhodes. Đối với người bình dân, việc tiếp nhận tiếng Pháp đến một cách rất tự nhiên. Người ta có thể nói “Cắt tóc, thui dê” để chỉ ngày Quốc khánh Pháp 14/7, Quatorze Juliet. Người ta có thể dùng tiếng Tây “bồi” nhưng lại không cảm thấy xấu hổ vì vốn liếng tiếng Pháp của mình vốn chỉ đếm được trên đầu ngón tay. Để tả con cọp, người ta có thể dài dòng văn tự “tí ti giôn, tí ti noa, lủy xực me-xừ, lủy xực cả moi”. Diễn nôm câu này là một chút màu vàng jaune, một chút màu đen noir, nó ăn thịt ông monsieur, nó ăn thịt cả tôi moi. Nhân đây cũng xin nói thêm về những đại danh từ nhân xưng như toa anh, mày – toi, moa hay mỏa tôi, tao – moi, en hay ẻn cô ấy, chị ấy – elle, lúy hay lủy anh ấy, hắn – lui, xừ hay me-xừ ông, ngài – monsieur… Học trò trường Tây, những nhà trí thức khoa bảng hay cả những kẻ tỏ ra “thời thượng” ngày xưa thường dùng những đại từ này. Cũng vì thế có một câu mang tính cách châm chọc “Hôm qua moa đi xe lửa, buồn tiểu quá nên moa phải… trên đầu toa” toa ở đây có 2 nghĩa toa xe lửa nhưng cũng có ý là toi anh trong tiếng Pháp. Nói thêm về hỏa xa, người Pháp xây dựng đường xe lửa đầu tiên ở Việt Nam tại Sài Gòn từ năm 1881. Đây là đoạn đường ray rail từ Cột cờ Thủ Thiêm đến bến xe Chợ Lớn, dài 13km. Mãi đến năm 1885 chuyến xe lửa đầu tiên mới được khởi hành và một năm sau, tuyến đường Sài Gòn-Mỹ Tho dài 71km bắt đầu hoạt động. Sau đó, mạng lưới đường sắt được xây dựng trên khắp lãnh thổ Việt Nam, dùng kỹ thuật của Pháp với khổ đường ray 1 mét. Tính đến năm 1975 miền Nam có khoảng đường ray nhưng vì chiến cuộc nên chỉ được sử dụng khoảng 60%. Nhà ga cũng có xuất xứ từ tiếng Pháp gare. Ga là công trình kiến trúc làm nơi cho tàu hoả, tàu điện hay máy bay đỗ để hành khách lên xuống hoặc để xếp dỡ hàng hoá. Từ sự vay mượn này ta có thêm những từ ngữ như sân ga, trưởng ga, ga chính, ga xép… Nhân nói về ga tưởng cũng nên nhắc lại động từ bẻ ghi aiguiller tức là điều khiển ghi aiguille cho xe lửa chuyển sang đường khác. Trong tiếng Việt, bẻ ghi còn có nghĩa bóng là thay đổi đề tài, chuyển từ chuyện mình không thích sang một đề tài khác. Xe lửa ngày xưa. Có những từ ngữ xuất xứ từ tiếng Pháp nhưng vì lâu ngày dùng quen nên người ta cứ tưởng chúng là những từ “thuần Việt”. Chẳng hạn như cao su caoutchouc, một loại cây công nghiệp được người Pháp du nhập vào Việt Nam qua hình thức những đồn điền tại miền Nam. Ngôn ngữ tiếng Việt rất linh động trong cách dùng từ ngữ cao su qua các biến thể như giờ cao su giờ giấc co dãn, không đúng giờ, kẹo cao su chewing-gum… Nhà băng banque là một chữ quen dùng trong ngôn ngữ hàng ngày còn xà bông cũng là loại chữ dùng lâu ngày thành quen nên ít người để ý xuất xứ của nó là từ tiếng Pháp, savon. Ở miền Bắc, xà bông được cải biên thành xà phòng, là chất dùng để giặt rửa, chế tạo bằng cách cho một chất kiềm tác dụng với một chất béo. Nổi tiếng ở Sài Gòn xưa có xà bông Cô Ba của Trương Văn Bền, dùng dầu dừa làm nguyên liệu chính. Chúng ta thấy ngôn ngữ Việt vay mượn từ tiếng Pháp trong rất nhiều lãnh vực. Về ẩm thực, tiếng Việt thường mượn cả cách phát âm đến tên của các món ăn có xuất xứ từ phương Tây. Vào nhà hàng, người phục vụ đưa ra mơ-nuy thực đơn – menu trong đó có những món như bít-tết chữ bifteck của Pháp lại mượn từ nguyên thủy tiếng Anh – beefsteak, những thức uống như bia rượu bia – bière, được chế biến từ cây hốt bố hay còn gọi là hoa bia – houblon, rượu vang rượu nho – vin… Về thịt thì có xúc-xích saucisse, pa-tê paté, giăm-bông jambon, thịt phi-lê thịt thăn, thịt lườn – filet. Các món ăn thì có ra-gu ragout, cà-ri curry… Khi ăn xong, khách xộp còn cho người phục vụ tiền puộc-boa tiền thưởng – pourboire. Ngày nay từ boa hay bo được dùng phổ biến với ý nghĩa cho tiền thưởng, hay còn gọi là tiền phong bao hoặc tiền phục vụ. Từ rất lâu, ở Sài Gòn xuất hiện các loại bánh mì theo kiểu Pháp, miền Bắc lại gọi là bánh tây với hàm ý du nhập từ Pháp. Có nhiều loại bánh đặc biệt như bánh mì ba-ghét loại bánh mì nhỏ, dài – baguette, bánh pa-tê-sô một loại bánh nhân thịt, ăn lúc nóng vừa dòn vừa ngon – pathé chaud, bánh croát-xăng hay còn gọi là bánh sừng bò – croissant. Người Sài Gòn thường ăn sáng với bánh mì kèm theo nhiều kiểu chế biến trứng gà như ốp-la trứng chỉ chiên một mặt và để nguyên lòng đỏ – oeuf sur le plat, trứng ốp-lết trứng tráng – omelette hoặc trứng la-cóc trứng chụng nước sôi, khi ăn có người lại thích thêm một chút muối tiêu – oeuf à la coque. Bánh “pathé chaud”. Món không thể thiếu trong bữa ăn sáng là cà phê café. Cà phê phải được lọc từ cái phin filtre à café mới đúng điệu. Người miền Bắc ít uống cà phê nên sau năm 1975 vào Sài Gòn nhiều người đã mô tả cái phin cà phê một cách rất “gợi hình” “cái nồi ngồi trên cái cốc”. Ngôn ngữ về trang phục cũng chịu ảnh hưởng rất nhiều từ tiếng Pháp. Bình thường hàng ngày người ta mặc áo sơ-mi chemise, cổ tay có cài khuy măng-sét manchette. Khi đi tiệc tùng hoặc hội họp thì mặc áo vét vest hay bộ vét-tông veston kèm theo chiếc cà-vạt cravate trên cổ áo sơ mi. Trời hơi lạnh có thể mặc bên trong áo vét một chiếc gi-lê gilet và hai tay mang găng gants cho ấm. Ngay cả quần áo lót bên trong cũng mượn từ tiếng Pháp. Phụ nữ thì mang xú-chiêng nịt ngực – soutien-gorge và xì-líp slip. Nam giới thì mặc áo may-ô maillot bên trong áo sơ-mi. Mặc quần thì phải có xanh-tuya dây nịt – ceinture và khi trời nóng thì mặc quần sóc quần ngắn, tiếng Pháp là short được mượn từ tiếng Anh shorts. Trang phục có thể được may từ các loại cô-tông vải bông – coton hoặc bằng len làm từ lông cừu – laine. Trên đầu có mũ phớt feutre, một loại mũ dạ, mũ be-rê béret, một loại mũ nồi… dưới chân là đôi dép săng-đan sandales, sau này người Sài Gòn lại chế thêm dép sa-bô sabot nguyên thủy tiếng Pháp là guốc. Mũ phớt. Đi lính cho Tây thì được phát đôi giày săng-đá giày của lính – soldat. Loại lính nhảy dù, biệt kích ngày nay là đặc công gọi là còm-măng-đô commando. Một đoàn xe quân sự có hộ tống được gọi là công-voa convoi, trông cứ như con voi trong tiếng Việt!. Thuật ngữ quân sự chỉ những công sự xây đắp thành khối vững chắc, dùng để phòng ngự, cố thủ một nơi nào đó được gọi là lô-cốt có xuất xứ từ blockhaus. Ngày nay, chữ lô cốt còn được dùng chỉ những nơi đào đường, thường được rào chắn, vây kín mặt đường, cản trở lưu thông. Xưa kia cảnh sát được gọi qua nhiều tên mã-tà xuất xứ từ tiếng Pháp matraque, có nghĩa là dùi cui, sen đầm gendarme, phú-lít police, ông cò commissaire… Lực lượng thuế quan ngày nay gọi là hải quan được gọi là đoan douane, lính đoan còn có nhiệm vụ đi bắt rượu lậu là một mặt hàng quốc cấm thời Pháp thuộc. Nông phẩm thì có đậu cô-ve còn gọi tắt là đậu ve – haricot vert, đậu pơ-tí-poa đậu Hòa Lan có hột tròn màu xanh – petits-pois, bắp sú bắp cải – chou, súp-lơ bông cải – chou-fleur, xà lách salade, cải xoong còn gọi là xà lách xoong – cresson, cà-rốt carotte, ác-ti-sô artichaut… Tiếng Tây cũng đi vào âm nhạc. Từ điệu valse, tango… đến đàn piano dương cầm, violon vĩ cầm, kèn harmonica khẩu cầm… Ở các đăng-xinh khiêu vũ trường – dancing luôn có ọc-két ban nhạc – orchestre chơi nhạc và xuất hiện một nghề mới gọi là ca-ve gái nhẩy – cavalière. Ngày nay người ta dùng từ ngữ ca-ve với ý chỉ tất cả những cô gái làm tiền, khác hẳn với ý nghĩa nguyên thủy của nó. Người phương Tây dùng nhiều sữa và các sản phẩm của sữa nên đã đưa vào ngôn ngữ tiếng Việt những từ ngữ như bơ beurre, pho-mát fromage, kem crème… Nổi tiếng ở Sài Gòn có hai nhãn hiệu sữa Ông Thọ Longevity và Con Chim Nestlé như đã nói ở phần trên. Có người cắc cớ thắc mắc, đàn ông mà lại là ông già thì làm sao có sữa? Xin thưa, hình tượng “Ông Thọ chống gậy” trên hộp sữa chỉ muốn nói lên tuổi thọ longévité của người dùng sữa. Trường hợp của Nestlé cũng vậy. Con Chim thì làm gì có sữa? Thực ra thì logo của Nestlé là một tổ chim gồm chim mẹ và 2 chim con nhưng người Việt mình cứ gọi là sữa Con Chim cho tiện. Logo của Nestlé. Thế mạnh của Nestlé là các sản phẩm sữa bò khác như Núi Trắng Lait Mont-Blanc và sữa bột Guigoz. Ngày xưa, những gia đình trung lưu đều nuôi con bằng sữa bột Guigoz. Tôi vẫn còn nhớ cảm giác khi ăn vụng một thìa Guigoz của em út vừa bùi, vừa béo, những hạt sữa nhỏ ly ty như tan ngay trong miệng. Sữa bột Guigoz được chứa trong một cái lon bằng nhôm, cao 15cm, có sọc ngang, bên trong lại có sẵn thìa để giúp người pha dễ đo lường. Khi dùng hết bột, các bà nội trợ không vứt lon như những loại sữa khác vì lon Guigoz có nắp đậy rất kín nên được “tái sử dụng” trong việc đựng đường, muối, tiêu, bột ngọt… Những người thiết kế lon Guigoz chắc hẳn chưa bao giờ nghĩ cái lon lại có nhiều công dụng sau khi sữa bột ở bên trong đã dùng hết. Lon Guigoz đã theo chân những tù nhân cải tạo như một vật “bất ly thân”. Những người “tưởng đi học có 10 ngày” mang theo lon Guigoz để đựng các vật dụng linh tinh như bàn chải, kem đánh răng, vài loại thuốc cảm cúm, nhức đầu để phòng khi cần đến. Lon Guigoz. Lon Guigoz thường được chúng tôi gọi tắt là “lon gô”. Học tập càng lâu lon gô càng tỏ ra “đa năng, đa hiệu”. Muốn múc nước từ giếng lên thì dùng gô làm gàu, buổi sáng thức dậy dùng gô làm ly đựng nước súc miệng, nhưng gô còn tỏ ra đặc biệt hữu ích khi dùng như một cái nồi để nấu nước, thổi cơm, luộc măng lấy ở trên rừng, luộc rau, luộc khoai mỳ “chôm chỉa” khi đi “tăng gia sản xuất”… nghĩa là làm được tất cả mọi công việc bếp núc. Chúng tôi ở trong một căn cứ cũ của Sư đoàn 25 tại Trảng Lớn Tây Ninh nên có cái may là còn rất nhiều vỏ đạn 105 ly. Người cải tạo săn nhặt những vỏ đạn về và chế thành một cái lò “dã chiến” và lon gô để vào trong lò vừa khít, tưởng như 2 nhà thiết kế vỏ đạn và lon gô đã ăn ý với nhau “từng centimét” ngay từ khâu thiết kế ban đầu! Ai chưa có lon gô thì nhắn gia đình tìm để đựng đồ ăn mỗi khi được vào trại “thăm nuôi”. Sau 30/4/75 lon gô trở nên hữu dụng vì công nhân, sinh viên, học sinh dùng lon gô để đựng cơm và thức ăn cho bữa trưa. Người Sài Gòn thường đeo một cái túi đựng lon gô khi đi làm, một hình ảnh không thể nào quên của “thời điêu linh” sau 1975. Tình cờ tôi bắt gặp trang web của Pháp quảng cáo bán lon sữa Guigoz cho những người sưu tầm, giá lên tới 15 euro cho một lon Guigoz xưa, dĩ nhiên là chỉ có lon không, không có sữa! Lon Guigoz. Người Pháp khi đến Việt Nam mang theo cả chiếc ô-tô xe hơi – auto, automobile. Xe xưa thì khởi động bằng cách quay ma-ni-ven manivelle đặt ở đầu xe, sau này tân tiến hơn có bộ phận đề-ma-rơ khởi động – démarreur. Sau khi đề demarrer, xe sẽ nổ máy, sốp-phơ người lái xe – chauffeur sẽ cầm lấy vô-lăng bánh lái – volant để điều khiển xe… Về cơ khí thì người Sài Gòn dùng các từ ngữ như cờ-lê chìa vặn – clé, mỏ-lết molete, đinh vít vis, tuốc-nơ-vít cái vặn vít – tournevis, công-tơ thiết bị đồng hồ – compteur, công tắc cầu dao – contact… Bây giờ nói qua chuyện xe đạp cũng có nhiều điều lý thú. Chiếc xe đạp trong ngôn ngữ Việt mượn rất nhiều từ tiếng Pháp. Trước hết, phía trước có guy-đông thanh tay lái – guidon, dưới chân có pê-đan bàn đạp – pedale, săm ruột bánh xe – chambre à air và phía sau là bọc-ba-ga để chở hàng hóa – porte-bagages. Chi tiết các bộ phận trong xe đạp cũng… Tây rặc. Có dây sên dây xích – chaine, có líp bộ phận của xe đạp gồm hai vành tròn kim loại lồng vào nhau, chỉ quay tự do được theo một chiều – roue libre, rồi phanh thắng – frein ở cả bánh trước lẫn bánh sau. Thêm vào đó còn có các bộ phận bảo vệ như gạc-đờ-bu thanh chắn bùn – garde-boue và gạc-đờ-sên thanh che dây xích – garde-chaine. Xe đạp Mercier ngày xưa có gắn ống bơm, dynamo và cả lon Guigoz. Mỗi chiếc xe đạp xưa còn trang bị một ống bơm pompe để phòng khi lốp xe xuống hơi. Bên cạnh đó người ta gắn một chiếc đy-na-mô dynamo – bộ phận phát điện làm sáng đèn để đi vào ban đêm. Tôi còn nhớ khi tháo tung một cái dynamo cũ thấy có một cục man châm gắn vào một trục để khi trục quay sẽ sinh ra điện. Hồi xửa hồi xưa, đi xe đạp không đèn vào ban đêm rất dễ bị phú-lít thổi phạt nên nếu xe không đèn, người lái phải cầm bó nhang thay đèn! Sài Gòn xưa có các nhãn hiệu xe đạp mổi tiếng như Peugoet, Mercier, Marila, Follis, Sterling… Đó là những chiếc xe đã tạo nên nền “văn minh xe đạp” của những thế hệ trước và một nền “văn hóa xe đạp” còn lưu lại trong ngôn ngữ tiếng Việt của người Sài Gòn xưa. Nguyễn Ngọc Chính Đăng lại có chỉnh sửa từ bài viết cùng tên Đăng trên diễn đàn Hội quán Phi Dũng
ngôn ngữ sài gòn xưa